“Hắn đây này...”, mệ nâng bằng cả hai tay, trao cho tôi. Hóa ra là chiếc hộp đựng kim chỉ bằng đậu bạc, hình oval, nắp tết nổi hình chim phượng có thể đặt gọn trong lòng một bàn tay. Mệ kể, bà được mạ dạy khâu vá từ nhỏ.
Chân lý của mạ: Người phụ nữ không biết cầm cây kim thì như con tu hú không biết dệt tổ. Cái hộp này cũng chính là kỷ vật mạ để lại cho tôi khi bà qua đời. Vậy mà mấy năm trước tôi đãng trí quá, làm xong rồi bỏ mô không nhớ, tìm khắp trong nhà bao nhiêu ngày vẫn không thấy, tôi phát bệnh vì sự hồ đồ của mình. Chừ tìm lại được hắn, mừng muốn chết. Tôi vừa thắp hương tạ mạ tôi rồi. Từ giờ, tôi sẽ để đầu giường.
Tôi ngồi ngắm bảo vật của mệ. Màu thời gian và cả những vết xước mờ vẫn còn nguyên trên chiếc hộp. Bao nhiêu người phụ nữ đã chạm tay vào đây, bao nhiêu tấm áo, manh quần được khâu bởi nó, bao nhiêu mùa hè nóng bức và mùa đông lạnh giá đã đi qua cùng chủ nhân của nó... Buồn vui của người phụ nữ đôi khi bắt nguồn và tan đi khi khâu vá một mảnh vải nào đó của những người thân yêu của mình. Trong tích tắc, hình dáng nhỏ bé dễ thương của chiếc hộp lại mách bảo tôi rằng, người thợ tạo ra nó hẳn phải là một bàn tay tinh tế và duy mỹ.
Mệ nhờ tôi xâu kim để khâu một chiếc khăn bằng vải hoa cho mùa đông sắp tới. Vừa khâu mệ vừa kể, rằng, trong ngôi nhà này từng tấm mền đến chiếc khăn vành nón cũng đều được khâu tay hết. Thời son trẻ, mệ đã dành cả tháng trời để khâu cặp ga gối mang theo khi xuất giá. Món quà đầu tiên mệ tặng chồng cũng là chiếc áo cánh được khâu từ hộp kim chỉ này. Mệ bảo, tôi không có điều kiện để tặng ông ấy những thứ đắt tiền, chỉ có chiếc hộp nhỏ mạ để lại mà làm nên bao nhiêu ấm êm cho chồng con và cả gia đình.
Tôi nhìn bàn tay cầm kim run run, mệ đã ngoại tuổi 90. Ở Huế, những người đàn bà cổ xưa như mệ, biết còn được mấy người.