Theo ThS.BS. Lê Phi Long – Phó trưởng khoa Lồng ngực mạch máu (Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM), thuyên tắc khối tĩnh mạch là bệnh lý khá phổ biến trong cộng đồng, đứng hàng thứ 3 trong các bệnh lý về tim mạch sau nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Bệnh có thể xảy ra với bất kỳ ai, bất kỳ độ tuổi nào, liên quan đến rất nhiều các yếu tố nguy cơ về cơ địa hoặc bệnh lý bẩm sinh hay mắc phải. Đây là hiện tượng tạo lập cục máu đông trong lòng hệ thống tĩnh mạch, gây bít tắc, nghẽn ứ sự lưu thông máu bình thường trong cơ thể.
Huyết khối làm ứ trệ dòng máu tĩnh mạch gây nên các hậu quả tại chỗ, có thể từ nhẹ như sưng đau, đỏ tấy dọc các mạch máu trên da (viêm tĩnh mạch nông huyết khối), sưng phù căng đau nhức chân đột ngột (huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới).
Bệnh cũng có thể gây ra các hậu quả rất nặng nề như sung huyết, thiếu máu nuôi ruột, hoại tử ruột (tắc tĩnh mạch nuôi ruột cấp tính), phù não cấp tính (thuyên tắc các tĩnh mạch nội sọ)… có thể dẫn tới tàn phế và tử vong.
Nghiêm trọng hơn, cục máu đông có thể bong tróc, di chuyển và trôi theo dòng máu về tim, gây tắc các mạch máu phổi (thuyên tắc phổi). Đây là một biến chứng cấp tính rất nguy hiểm, làm cho người bệnh rơi vào nguy kịch và tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời.
Bác sĩ Phi Long khuyến cáo, người bệnh gặp đa chấn thương hoặc trải qua phẫu thuật, thay khớp gối, háng, u bướu vùng chậu là đối tượng nguy cơ cao. Bên cạnh đó, người bệnh ung thư, nhất là ở giai đoạn tiến triển, có điều trị hóa chất, rất nên được tầm soát đánh giá nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch.
"Với người bệnh đang được theo dõi, điều trị thuyên tắc khối tĩnh mạch nên tuân thủ nguyên tắc điều trị và dùng thuốc theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ để kiểm soát bệnh hiệu quả, phòng ngừa nguy cơ tái phát" - bác sĩ Phi Long cho biết.