Ông muốn hỏi về thủ tục nhận một đứa con ngoài giá thú của mình.
Yêu người tình nhưng không muốn ly hôn với vợ
Hôn nhân của ông với người vợ chính thức đã được gần 30 năm. Ông hàng ngày đi làm bảo vệ, vợ thì buôn bán nhỏ ở nhà. Hai người con chung của ông bà đã lớn, đi làm và lập gia đình.
Cuộc sống cứ đều đều trôi qua, không vui, không buồn. Vợ ông vốn là người phụ nữ đơn giản đến mức xuề xoà, không cầu kỳ trong ăn nói và trang phục.
Vợ chồng ngày xưa đến với nhau do mai mối nên cũng không có tình yêu kiểu cuồng nhiệt hay sét đánh, vì vậy cả hai đều hiếm nói lời yêu thương với nhau.
Khoảng 3 năm trước gần chỗ làm việc của ông có một phụ nữ mới ly dị chồng đến ở. Do nhà chỉ có 2 mẹ con nên ông cũng nhiệt tình giúp đỡ, nay khiêng đồ nặng, mai thay giùm bóng đèn, mốt thì sửa giùm đường ống nước. Chuyện gì đến sẽ đến, ông ngày một yêu người phụ nữ đó và người này trong thời gian trống vắng vì mới trải qua một cuộc hôn nhân tan vỡ nên đã sa vào vòng tay của ông. Cuối cùng họ có với nhau một đứa con.
Ông đến gặp luật sư để hỏi xem ông có được đứng tên trên giấy khai sinh là cha của đứa bé không. Có cách nào mà ông vẫn đứng tên trên giấy khai sinh là cha của đứa bé mà không cần cho vợ ông biết.
Luật sư hỏi ông có muốn duy trì cuộc hôn nhân với người vợ chính thức, hay muốn ly hôn với vợ, rồi kết hôn với người phụ nữ vừa sinh con cho ông? Ông bảo rất yêu người phụ nữ đến sau nhưng cũng không muốn chấm dứt cuộc hôn nhân với người vợ đã gắn bó gần 30 năm. Ông không muốn xáo trộn cuộc sống của mình. Rõ ràng ông vẫn muốn duy trì cuộc sống tình cảm với cả hai người phụ nữ.
Luật sư khuyến cáo việc ông duy trì đời sống hôn nhân với hai người phụ nữ như bấy lâu nay là vi phạm pháp luật. Điểm c, khoản 2, điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nghiêm cấm: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng”.
Chưa hết, tùy theo tính chất và mức độ mà hành vi này có thể bị xử phạt hành chính hoặc chịu trách nhiệm hình sự.
Về xử phạt hành chính, Nghị định 110/2013/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP quy định về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã áp sẽ dụng mức phạt tiền từ 1 đến 3 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
Về xử lý hình sự, điều 147 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Làm thủ tục xác nhận cha cho con
Sau khi nghe luật sư phân tích, ông tần ngần và nói sẽ về suy nghĩ thêm để ra quyết định chọn vợ hay người yêu. Ngoài ra luật sư cũng hướng dẫn thủ tục để tên của ông được ghi vào phần của người cha trong giấy khai sinh.
Điều 25 Luật hộ tịch 2014 quy định thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con có nội dung:
“1. Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.
2. Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 điều này, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ, con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 5 ngày làm việc”.
Một vấn đề mà ông thắc mắc là những chứng cứ nào ông có thể sử dụng để làm chứng cứ chứng minh quan hệ cha con giữa ông và cháu bé? Điều 11 của Thông tư 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2017 do Bộ Tư pháp quy định: Chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại khoản 1 điều 25 và khoản 1 điều 44 của Luật Hộ tịch gồm một trong các giấy tờ, tài liệu sau đây:
“1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.
2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 điều này thì phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng. Cơ quan đăng ký hộ tịch có trách nhiệm giải thích rõ trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc cam đoan, làm chứng không đúng sự thật”.
Như vậy là dù không có giấy đăng ký kết hôn, nhưng ông vẫn có thể đứng tên trên giấy khai sinh ở phần cha của cháu bé thông qua thủ tục xác nhận cha cho con.