Thẩm phán bất chấp thụ lý vượt thẩm quyền
Như Lao Động đã thông tin, năm 2014, Cty CP Núi Ngọc (huyện Phú Quốc) được cấp phép đầu tư Dự án Moutanin Pearl Resort and Boutique Hotel tại núi Ông Quán (thị trấn An Thới, huyện Phú Quốc) với vốn đầu tư 160 tỉ đồng. Quá trình thực hiện dự án, Cty CP Núi Ngọc có ký hợp đồng với ông Lê Minh Huê (xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc) và bà Phan Thị Thanh Tú (xã Xuân Đỉnh, quận Từ Liêm, Hà Nội) về việc góp vốn và nhượng cổ phần. Sau đó, các bên xảy ra tranh chấp, ông Huê và bà Tú đồng đứng đơn kiện Cty CP Núi Ngọc ra TAND huyện Phú Quốc.
Quá trình diễn ra vụ án, Cty Núi Ngọc phát hiện có nhiều điểm bất thường nên đã làm đơn tố cáo tội phạm đến cơ quan chức năng. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra Viện KSND tối cao đã xác định TAND huyện Phú Quốc đã có nhiều sai phạm. Nhưng đến nay, vụ án được cho là không khởi tố như vừa trình bày…
Theo Vụ 6, TAND huyện Phú Quốc thụ lý, xét xử sơ thẩm vụ án sai thẩm quyền khi đương sự đang ở Canada (theo quy định, thẩm quyền thuộc TAND cấp tỉnh giải quyết). Tuy nhiên, do vụ án đang được TAND tỉnh Kiên Giang thụ lý xét xử theo trình tự phúc thẩm, hậu quả chưa xảy ra nên hành vi này của thẩm phán Trương Ngọc Hồng chưa đủ yếu tố cấu thành tội “ra bản án trái pháp luật”.
Việc chữ ký và chữ viết họ tên Phan Thị Thanh Tú tại một số tài liệu trong hồ sơ vụ án được giám định không phải của bà Tú, theo Vụ 6, quá trình điều tra, bà Tú khai rằng, bà thường xuyên thay đổi chữ ký(?). Ngoài ra, thẩm phán và thư ký khai khi làm việc với đương sự đều yêu cầu bà Tú trình thẻ căn cước công dân, giấy CMND đầy đủ, nên không có việc thẩm phán tự ý cho đương sự khác ký thay bà Tú hoặc giả chữ ký của bà Tú. Do chưa xác định được động cơ, mục đích vụ lợi của thẩm phán Hồng và thư ký Kiệt nên hành vi này không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm về tội “làm sai lệch hồ sơ vụ án”.
Những vấn đề nêu trên có vẻ chưa thỏa đáng và còn nhiều uẩn khúc cần làm rõ. Thứ nhất, vụ án được thụ lý vào ngày 14.9.2015 (theo Thông báo thụ lý số 13/2015/TB-TLVA của TAND huyện Phú Quốc). Trong quá trình thụ lý, thẩm phán Hồng đã cho dừng phiên tòa để xác minh bà P.T.H.V có ở nước ngoài hay không. Quá trình xác minh, cục xuất nhập cảnh đó có văn bản trả lời cho tòa án Phú Quốc (kèm theo danh sách xuất nhập cảnh của bà V.), trong đó thể hiện rõ: Vào ngày 28.8.2015 bà V. đã xuất cảnh ra nước ngoài, và đến ngày 24.11.2015 mới nhập cảnh vào Việt Nam. Như vậy, thời điểm tòa thụ lý vụ án, bà V. không có mặt ở Việt Nam.
Luật sư Nguyễn Văn Trường (Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng: “Khi có văn bản của Cục Xuất nhập cảnh, lẽ ra, TAND huyện Phú Quốc phải chuyển vụ án lên cho TAND cấp tỉnh vì không thuộc thẩm quyền thụ lý của tòa cấp huyện. Thế nhưng, thẩm phán Hồng vẫn “nhắm mắt làm ngơ” xem như không biết gì và vẫn tiếp tục đưa vụ án ra xét xử. Điều này thể hiện sự bất chấp của thẩm phán Hồng khi đưa vụ án không thuộc thẩm quyền của mình ra xét xử. Nếu thẩm phán Hồng làm đúng quy định thì đã không dẫn đến những hậu quả nhập nhằng về sau.
Thứ hai, Vụ 6 cho rằng, bản án sơ thẩm đã được kháng cáo lên cấp phúc thẩm, nên chưa gây ra hậu quả, nên hành vi của thẩm phán Hồng chưa đủ yếu tố cấu thành tội “ra bản án trái pháp luật”. Cần nhấn mạnh rằng, trước đó, vụ án đã được TAND huyện Phú Quốc xét xử sơ thẩm xong, và bản án đã được phát hành. Việc bản án chưa có hiệu lực là do bản án bị kháng cáo, việc này là ngoài ý chí của thẩm phán Hồng. Đặt trường hợp, nếu không có kháng cáo, khi đó, bản án này có hiệu lực thì hệ lụy ra sao?
(Ảnh: TRẦN LƯU) |
Hai lần kết luận lại “thua” một lời khai của đương sự?!
Bên cạnh đó, bà Tú khai rằng có thói quen ký nhiều chữ ký khác nhau. Để làm rõ những hành vi sai phạm của những người này, lẽ ra ngành chức năng phải yêu cầu bà Tú cung cấp những tài liệu có chữ ký “không ổn định” của bà này trước và sau khi vụ án được đưa ra xét xử để có kết luận một cách chính xác và công bằng.
Đặc biệt, trước đó, Phân viện Khoa học hình sự đã có kết luận giám định số 3639/C54B ngày 17.11.2016) kết luận rằng: Chữ ký và chữ viết họ tên Phan Thị Thanh Tú trên một số tài liệu trong hồ sơ vụ án không phải cùng một người viết ra. Sau đó, Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao cũng đã xác định, TAND huyện Phú Quốc trong quá trình thu thập chứng cứ và lấy lời khai của nguyên đơn bà Phan Thị Thanh Tú đã vi phạm Điều 84; 86 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào tài liệu do cơ quan điều tra thu thập từ hồ sơ chính của vụ án đã trưng cầu giám định tại Phân viện Khoa học hình sự, thì một số tài liệu do TAND huyện Phú Quốc xác lập “có dấu hiệu giả mạo”, vì chữ ký và chữ viết họ tên tại các tài liệu này trong hồ sơ vụ án không phải là của bà Phan Thị Thanh Tú. Như vậy, có đến 2 cơ quan có thẩm quyền đã 2 lần xác định: Hồ sơ vụ án “có dấu hiệu bị giả mạo”. Nhưng giờ đây, cơ quan chức năng chỉ dựa vào lời khai đơn giản của bà Tú để kết luận rằng: Không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm về tội “làm sai lệch hồ sơ vụ án”.