Truyện ngắn: Vụn vặt chuyện nhà

Y Mùi |

Từ khi bố mất mẹ vẫn ở một mình. Mẹ bảo già rồi nên xấu tính xấu nết, ở với các con sẽ khó cho cả con trai, con dâu, và các cháu. Mấy cậu em ngại điều tiếng, sợ người làng dị nghị nhưng tôi thì lại thấy chả sao. Mẹ muốn thế thì chiều. Khi nào mẹ không tự nấu ăn, tự chăm sóc mình được thì một trong bốn ông con trai sẽ đón mẹ về. Lúc đó kiểu gì mẹ chả phải nghe.
Thế là mẹ vẫn ở một mình từ bấy đến nay. Mẹ là nông dân nên không có lương hưu, không có bảo hiểm y tế. Gia tài của mẹ chỉ có một lũ con cháu là “của để dành”. Trai, gái, dâu, rể, cháu nội, cháu ngoại, chắt ngoại, chắt nội gần năm chục con người lớn, bé.
Nhà tôi ngày xưa thuộc loại cùng đinh ở làng. Ăn vay người làng, ăn đong và mua chịu ở chợ là chuyện bình thường như cơm bữa. Mẹ cứ sòn sòn ba năm sinh đôi đứa. Bố mẹ tôi chèo chống, nuôi lũ con tám chín đứa cách nhau chỉ tuổi rưỡi đến lớn khôn, gái đến tuổi thì gả chồng, trai đủ tuổi tuyển quân thì nhập ngũ giống như nhà nhà ở cái làng quê phần lớn là nghèo rớt mồng tơi.
Bố chúng tôi, như mẹ nói, thì suốt năm “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”. Mẹ phải lo mọi việc trong nhà, kể cả việc chạy cái ăn, lo cái mặc. Vay dài, mượn nóng đều một bàn tay mẹ. Thỉnh thoảng mẹ vẫn kể về những ngày lận đận của gia đình khi chúng tôi còn nhỏ. Nghe giọng kể, biết mẹ có chút tự khoe về tài vay mượn và sự khéo ăn đong của mình.
Mùa gặt về, thóc lúa chả kịp mang vào nhà, đã đội nón ra đi ngay từ lúc lặn mặt trời, sân phơi hết nắng. Thóc phơi khô, quạt sạch đến đâu là mẹ gánh đi trả nợ đến đó. Nếu phải mẻ lúa nào ở chân ruộng xấu, thóc kém thì mẹ mới để lại nhà dùng. Mẹ bảo cốt cái lúc đói người ta sẵn lòng cho vay. Mẹ luôn chu đáo với các chủ nợ, người lấy lãi cũng như người cho vay không tính lãi. Lúa gặt về ban ngày được đập tách lấy thóc luôn trong đêm.
Kể thêm một chút về việc đập lúa. Những năm sáu mươi của thế kỷ trước chưa có máy tuốt lúa như bây giờ. Người ta phải dùng sức của đôi tay đập cho thóc tách khỏi bông lúa. Nhờ một dụng cụ gọi là néo, người đập lúa kẹp thật chặt vào cổ lượm lúa rồi nhấc bổng lên đập vào mặt một tấm ván dày kê nghiêng trên một cái giá bốn chân đóng bằng những khúc tre cách mặt đất chừng nửa mét. Cũng có thể dùng một cái cối đá úp nghiêng để đập lúa, mà phải là những cái cối nặng cỡ ba, bốn người khiêng. Động tác đập cứ như vậy lặp lại đến khi không còn thấy những hạt thóc rơi ra thì thôi. Khi mặt trời lên là cào thóc ra khắp sân phơi. Được nắng, thóc chỉ phơi vài buổi là khô giòn, khi đưa hạt lúa lên miệng cắn thử, thấy một tiếng kêu “rắc” giòn tan, hạt gạo vỡ ra là được. Nếu tiếng kêu nghe “khục” thì phải phơi thóc thêm vài nắng nữa. Mẹ quạt lựa bỏ những hạt thóc lép, sàng sảy sạch gánh đi trả nợ.
Mẹ tôi có một trí nhớ rất tốt. Không ghi chép gì nhưng mẹ nhớ chi li, chính xác nợ nhà ai, bao nhiêu. Có muốn ghi chép thì mẹ cũng chịu vì có biết chữ đâu mà viết. Mẹ vay nợ khắp làng, khắp chợ luôn. Mẹ là con nợ của tất cả những nhà khá giả. Người tính toán thì cho vay để lấy lãi. Người không so đo thì giúp nhà thiếu ăn khi tháng ba ngày tám không bắt trả lãi. Mẹ không quên nợ nhà ai, cũng không nhầm lẫn bao giờ.
Ngày ấy, quê tôi đo đếm thóc gạo bằng đơn vị gọi là “đấu” và “nồi”. Mấy đấu là một nồi thì tôi cũng không nhớ nữa. Mỗi lần chuẩn bị gánh thóc đi trả nợ nhà ai mẹ cũng đong cẩn thận trước và mang dư ra một vài đấu thóc dự phòng khi gặp chủ nợ tham, đong be mép đấu bằng cả hai tay sẽ hao thóc vì đấu thóc lúc đó sẽ có ngọn cao nhất. Đó cũng là cách người tham lam thường áp dụng mỗi khi đong đếm thóc gạo, đỗ lạc bằng đơn vị đo lường là đấu. Thuộc vùng sâu vùng xa nên hồi đó ở quê tôi việc định lượng bằng cân, lạng còn xa lạ với các bà nội trợ. Lúa gạo, ngô đậu được đong đếm bằng các loại đấu to, đấu nhỏ khác nhau.
Những cái đấu được làm ra từ những mảnh gỗ mỏng uốn ghép lại với nhau. Sau này đấu được làm bằng sắt tây, bằng nhôm lá. Bây giờ nhà ai còn giữ lại được những dụng cụ đo lường đó thì sẽ ra vô khối tiền. Những cái đấu ấy đã trở thành của độc. Nhiều người từ thành phố về các làng quê, lùng tìm mua đủ thứ dụng cụ gia đình thời những năm năm mươi, sáu mươi của thế kỷ trước. Cối xay, cối giã gạo, cối đá, nong, nia, giần, sàng, đấu, thúng, quang gánh bằng song mây, tre đan; cả chạn bát, giường, tủ cũ đóng bằng tre hay gỗ... đều trở thành đối tượng săn lùng của thợ buôn đồ gia dụng cũ. Nhiều đại gia, dân chơi làm bảo tàng nông thôn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng... cần vật dụng “ngày xưa” ấy.
Quay lại chuyện vay mượn của mẹ. Vào mùa gặt, thóc phơi khô, quạt sạch đến đâu là mẹ gánh đi trả nợ từng nhà. Mẹ kể luôn luôn phải mang dư thóc so với số nợ. Nếu gặp chủ nợ không tham thì số thóc mang dư còn nguyên. Nếu gặp người tham, họ đong be miệng đấu thì vẫn còn thừa một ít thóc, đủ dính hai cái trôn thúng mang về. Nhà giàu cũng có người nọ người kia. Nhà nào tốt thì chỉ là mình vay trước, trả sau, nếu gặp chủ nợ có tính tham lam thì đành phải chịu thua thiệt một tí. Người tham có nhưng không nhiều. Có những người giàu rất tốt và thật lắm. Mẹ gánh thóc đến trả nợ thì họ đưa thúng đựng ra, bảo cứ đong vào đấy rồi chạy ra chạy vào làm tiếp việc đang dở tay.
Bà Tê từng là chủ nợ của gia đình tôi mỗi vụ giáp hạt trong nhiều năm liền, cho vay không lấy lãi nhưng tham lam. Lúc đong thóc cho vay thì bà ấy buông tay mãi không đón mép đấu. Khi lấy nợ thì bà be choàng quanh cái đấu bằng hai bàn tay khum khum ôm trọn miệng đấu. Bà Tê làm động tác đúng như thế vài ba lần liền và rất nhanh tay. Đong nhanh tay sẽ làm cho đấu thóc đã có ngọn thì sẽ giữ gần như nguyên cái ngọn của nó. Đong be vào miệng cái đấu như vậy thì đấu thóc sẽ không còn là đấu thóc bình thường nữa. Bằng những động tác rất thuần thục nhằm được lợi nhất, khi đấu thóc có ngọn cao nhất bà Tê mới trút sang thúng nhà mình. Đôi lần, khi mà lòng tham của bà Tê chừng mực thôi, thì số thóc mẹ mang dư cũng vừa khoẳn. Mẹ ra về với đôi quang thúng không nhẵn thín.
“Đong kiểu ấy rất hao thóc vì đấu thóc có ngọn cao hơn nhiều so với cách đong buông tay” - Mẹ giảng giải về cái mẹo làm điêu của người có tính tham lam. Bà Tê là người khôn tới mức nhiều người khôn ngoan khác khó mà bằng. Bà Tê để ý từng thửa rộng lúa của nhà tôi xem tốt xấu thế nào từ lúc lúa làm đòng. Đến mùa gặt, bà dặn trước, khi gặt thửa ruộng này hay thửa ruộng kia thì mang thóc trả nợ nhà bà. Dù ai cũng biết mẹ tôi là người vay trả rất đàng hoàng. Mẹ không mang thóc xấu, thóc lép, thóc phơi thiếu nắng đi trả nợ nhà ai bao giờ.
Một lần đi trả nợ thóc cho nhà bà Tê, mẹ đã mang thừa ba đấu thóc, dư hơn so với khi đi trả các nhà khác. Thế mà bà Tê đong, vét nhẵn cả hai thúng thóc vẫn bảo bị thiếu gần hai đấu.
- Bà có đếm nhầm không đấy? - Mẹ hỏi thế vì biết chắc chỉ có thừa và cùng lắm thì cũng phải đủ.
“Hay là bà đong lại cho em xem?” - Mẹ đề nghị bà Tê đong lại để hai người cùng đếm thử.
- Nhầm là nhầm thế nào. Thiếu đúng hai đấu mà - Giọng bà Tê rất nhẹ nhàng nhưng tỏ ra kiên định.
Biết không lay chuyển được bà chủ nợ dư dật của nả nhưng cũng dư dật cả tính tham lam, mẹ quay về nhà xúc ba đấu thóc mang đến, bảo:
- Bà chị không phải đong lại đâu, ba đấu đấy.
Bà Tê cười tươi, hỏi đãi bôi:
- Sao nhiều thế?
- Chỉ cần bà chị giúp nhà em lúc giáp hạt để các cháu khỏi bị đứt bữa là quý hóa rồi - Mẹ trả lời thật thà đúng tính cách luôn chịu thiệt thòi về mình, rồi tất tả cắp cái thúng không ra về.
Đấy là chuyện vay mượn ở làng. Mẹ mua chịu, cộng dồn nợ ở chợ cũng là một chuyện lạ. Ngày giáp hạt, mẹ mua hàng tiêu dùng và đong thóc gạo chịu mỗi phiên chợ. Đến mùa thu hoạch mẹ gánh thóc gạo ra chợ. Nợ ai thóc gạo thì mẹ trả thóc gạo. Nợ tiền hàng thì mẹ gán bằng thóc gạo. Ai không lấy thóc gạo thì mẹ bán đi lấy tiền để trả.
Mẹ mua chịu đủ thứ từ mắm, muối, dầu đèn, miến mì đến trầu vỏ, quang thúng và đồ gia dụng khác, rồi thanh toán cả vào vụ gặt lúa. Có hôm mẹ không định mua mắm nhưng bà hàng mắm nhìn thấy mẹ cứ gọi ời ời, bảo mẹ mua mở hàng. Mẹ nói không mang chai thì bà bán mắm cho mượn chai, phiên chợ sau mang trả. Bà hàng trầu vỏ quen thì cứ trông thấy mẹ là nhất thiết mời mẹ mua, không mua cũng phải sờ vào hàng cho bà ấy lấy may. Mẹ không có tiền thì bà trầu vỏ bán chịu, đến phiên chợ sau trả hoặc cộng dồn lại đến mùa gặt trả cả một thể cũng không sao.
Mỗi khi nghe những chuyện vay mượn, mua chịu, trả nợ của đời mẹ để nuôi sống cả gia đình trong suốt thời kỳ đói kém, mấy chị em, bác cháu lại cười ra nước mắt.
Một lần vui chuyện tôi nói:
- Thời của mẹ hay nhỉ. Bây giờ mà không có tiền thì chỉ có nhịn thôi, sờ vào rồi mà bảo không có tiền không mua thì sẽ lĩnh đủ mọi khó chịu của người bán hàng. Gặp người ghê gớm thì họ chửi té tát luôn.
- Chị em chúng mày tưởng ai cũng được người ta bán chịu cho, mời chào, chèo kéo vào hàng như mẹ à? Nhiều người không trả nợ tiền hàng mua chịu phiên chợ trước thì phiên sau đừng hòng mà mua chịu tiếp. Người nợ dai không chịu trả hay nặng vía đến gần hàng là đã bị xua đi như đuổi tà, lý do chưa mở hàng, lý do mua phiên chợ trước chưa trả tiền... - Mẹ nói và đôi mắt thì ánh lên niềm tự hào của người dễ dàng vay nợ suốt cả một đời.
*
Một chuyện khác. Tôi đã hoàn toàn quên. Cũng có thể vì tôi phải sống xa bố mẹ và gia đình từ khi còn quá nhỏ tuổi nên ký ức về những chuyện ăn thèm, vác nặng tuổi ấu thơ tôi không nhớ được nhiều.
Khi mấy chị em ngồi “ôn nghèo, kể khổ”, cậu em út vẫn chưa hết ấm ức :
- Em tức nhất là mỗi buổi chợ mẹ mua thức ăn về, nấu chín nhưng cất đi chẳng cho ăn, cứ để dành chờ khách của bố. Mỗi ngày mẹ lấy xoong thức ăn xuống đun lại một lần rồi treo lên cái quang con sát gần mái nhà. Muốn ăn vụng cũng không thể lấy được. Nếu hôm sau là phiên chợ mà tối đó không thấy có khách thì mẹ mới cho ăn. Không ít lần mẹ quên không đun lại nồi thức ăn nên bị thiu phải đổ cho lợn.
- Tiếc nhỉ?
- Tiếc chứ sao không tiếc? Người thì đói, thức ăn lúc ngon lành thì không được ăn, cứ treo đấy chờ khách.
Hồi đó, chợ quê năm ngày chỉ có hai phiên nên mẹ cứ phải mua thức ăn dự phòng khách đột xuất theo cách ấy. Mẹ nấu chín, đậy kín rồi treo lên cao vừa đề phòng chó mèo ăn vụng, vừa để mấy đứa con luôn bị đói khát khỏi ngõm ngọ. Mẹ là người phụ nữ chịu thương chịu khó, nhường nhịn chồng con. Đặc biệt, mẹ rất hiếu khách. Kể cả khi trong nhà hết nhẵn gạo nhưng đến bữa mà có khách chơi là mẹ mời ở lại cho bằng được, rồi bắt con vác rá sang hàng xóm vay tạm để nấu cơm thết khách. Thức ăn thì khỏi lo vì phiên chợ nào mẹ cũng mua và treo cao lên như vậy.
Trong ký ức của mấy chị tôi còn rất rõ những bữa cơm gia đình đạm bạc, chỉ có ngô, sắn hay khoai lang thay gạo và rau cỏ nhì nhằng nhưng vui như tết. Phụ huynh của chúng tôi là những người sống rất lạc quan, tin vào tương lai tốt đẹp phía trước. Vào khoảng thời gian giữa thế kỷ trước, xe đạp là phương tiện còn rất xa xỉ ở thôn quê. Bố tôi làm công tác xã hội, là trưởng ban văn hóa xã kiêm đội trưởng đội văn nghệ của làng nên xã xét ưu tiên cho mua một chiếc xe đạp nam hiệu Thống Nhất giá mậu dịch, đâu đó khoảng vài ba trăm đồng nhưng không vay được tiền để mua. Vay mượn để ăn hay chữa bệnh thì được ngay nhưng vay sắm xe đạp để đi thì không ai cho vay. Bố đành phải nhường xuất xe phân phối đó cho bác phó ban văn hóa xã. Trong một bữa cơm vẫn ăn độn là chính bố tuyên bố xanh rờn: “Chị em chúng mày yên tâm, cứ chịu khó lao động, cứ học hành cho bằng chúng bằng bạn. Rồi trời sẽ có mắt. Thế nào rồi cũng có ngày bố chúng mày có xe đi, xe treo”.
Câu nói vu vơ cho vui nhà của bố về chuyện sẽ có xe treo, xe đi vậy mà thành hiện thực. Ấy là khi tôi được đi du học ở Đông Đức. Tôi căn cơ đóng được một thùng hàng trong đó có hai chiếc xe đạp Mipha gửi về Việt Nam cho bố mẹ trước khi tốt nghiệp. Mở thùng hàng ra, việc đầu tiên là bố lắp hoàn chỉnh cả hai con Mipha rồi lấy dây thừng treo một con lên trong gian chái nhà, một con thì ông dùng. Chỉ tập tranh thủ có hai buổi trưa, ông vi vu phóng khắp làng, ra xã để khoe đã được con gái báo hiếu.
Sinh thời, thỉnh thoảng ngồi đàm đạo về quốc kế dân sinh, về cái dở cái hay của xã hội hiện đại với tôi ông hay nhắc: “Gì thì gì chứ nhà mình nhất định phải mang ơn chế độ này. Con sống và làm việc cho thật tốt. Nếu không phải là nhờ có Đảng, có chính phủ và các chính sách ưu việt xã hội chủ nghĩa thì con đâu có được bay nhảy tận trời Âu 5 năm liền như vậy. Nếu vẫn là phong kiến, đế quốc nó thống trị đất nước thì nhà mình cứ bần cố nông, không thước đất cắm dùi mãi mãi mà thôi”.
Tôi chỉ biết vâng, dạ vì quả đúng như thế thật!
Lại nói về bữa cơm gia đình. Gọi là “ăn cơm” nhưng nhiều khi ngồi vào mâm, mở nồi cơm ra chỉ thấy toàn sắn tươi cắt khúc hay sắn thái miếng phơi khô, bẻ vụn cõng vài hạt cơm. Nếu mùa khoai lang thì nấu cơm độn với khoai lang. Khi nấu phải gới, đảo nồi cơm lên lúc cơm bắt đầu sôi và khi cạn hết nước. Gạo thường bị lọt xuống đáy nồi nhiều. Lượt cơm dưới đít nồi gần như không có độn. Cơm ấy được đơm cho mấy đứa bé. Còn những đứa lớn hơn và bố mẹ thì chỉ ăn khoai đến no bụng. Nhiều khi ngán quá, miếng khoai không trôi cứ tắc trong cổ họng phải dằm nhuyễn ra, chan nước canh hay nước dưa chua vào cho dễ nuốt. Ngày xưa thì khổ sở, xanh xao còi cọc vì phải ăn khoai sắn trường thay cơm. Bây giờ, tiền mua hai ký khoai thì mua được ba ký gạo. Ở thành phố người ăn khoai lang chủ yếu là nhà giàu, người dư dật tiền bạc.
*
Sáng nay cậu em gọi điện, bảo mẹ sờ thấy cục gì ở sau tai, chị về xem mẹ bị làm sao. Tôi đang ốm, không thể về ngay, hơn nữa muốn đưa mẹ đi khám bác sĩ chuyên khoa trên thành phố nên bảo cậu em đưa mẹ ra Hà Nội. Tôi gọi cho mẹ, dặn mang theo quần áo vì có thể phải ở phố lâu lâu. Mẹ giao hẹn sẽ đi nhưng chỉ khám xem làm sao, mua thuốc rồi về luôn, rồi đề nghị nhưng chẳng khác gì ra lệnh: “Mẹ già rồi không mổ xẻ gì đâu nhé”.
Cả cuộc đời mẹ đã phải sống lam lũ, tằn tiện trong nghèo đói, lo cho gia đình, cho chồng con, lo đãi đằng khách khứa, bạn bè của chồng. Bây giờ tuổi đã cao, ốm đau luôn nhưng mẹ vẫn quyết từ chối chữa bệnh vì sợ tốn kém tiền bạc của các con.
Mẹ tôi là người phụ nữ như thế. Ngày chị em tôi xa mẹ đang gần. Vậy mà tôi, đứa con gái lớn nhất của gia đình, được bố mẹ cho ăn học bằng người, nhưng chẳng báo đáp được công dưỡng dục sinh thành cho cha mẹ.
“... Mẹ già như chuối chín cây. Gió lay mẹ rụng con phải mồ côi...”. Một bài hát rất hay về mẹ, chan chứa tình mẫu tử nhưng rất buồn. Lời bài hát ấy luôn ám ảnh tôi.
Mỗi lần nghe giai điệu và những lời ca buồn về mẹ, tôi chỉ muốn khóc. Tại sao hình ảnh mẹ tôi cũng như bao bà mẹ khác đẹp thế, vĩ đại thế, thân thương thế mà bài hát ca ngợi mẹ lại có lời ca buồn đến vậy? Phải chăng bao nhiêu nỗi buồn trên cõi đời các mẹ đã nhận cả về mình để cho các con có được niềm vui?
Tôi cứ day dứt mãi câu hỏi này mà chưa tìm được lời đáp cho thỏa đáng với tấm lòng và tình thương của mẹ!
Y Mùi
TIN LIÊN QUAN

Sân bay thứ 2 của Hà Nội vẫn có thể trở thành sân bay quốc tế

Hiếu Anh |

Theo thông tin từ Bộ Giao thông Vận tải, sân bay thứ 2 vùng Thủ đô Hà Nội vẫn có khả năng trở thành sân bay quốc tế.

Vụ 2 bà cháu tử vong vì cháy xe điện: Nhân chứng kể lại phút kinh hoàng

QUÁCH DU |

Thanh Hóa - Trước khi đi ngủ, anh D. cắm sạc pin chiếc xe điện 4 bánh, ai ngờ chỉ ít phút sau, chiếc xe bốc cháy khiến người con gái 5 tuổi và mẹ ruột bị thiệt mạng.

Thắng tay vợt chủ nhà, Nguyễn Thuỳ Linh vào tứ kết giải cầu lông Mỹ mở rộng

HOÀNG HUÊ |

Chiến thắng 2-1 trước đối thủ chủ nhà Iris Wang ở vòng 2 đơn nữ giúp Nguyễn Thuỳ Linh giành vé vào tứ kết giải cầu lông Mỹ mở rộng 2023.

Việt Nam có thể đang chậm trễ trong việc dùng chính sách tài khoá

Hương Nguyễn |

“Chúng ta đang sử dụng quá nhiều chính sách tiền tệ để phục hồi kinh tế, tổng cầu mà chậm trễ trong việc dùng chính sách tài khoá phản chu kỳ” - PGS.TS Nguyễn Đức Trung - Hiệu trưởng Trường ĐH Ngân hàng TPHCM nhận định.

Việt Nam đối mặt với lạm phát đến từ thế giới

Quý An |

Trước diễn biến khó lường từ những yếu tố địa chính trị, kinh tế thế giới, nhiều thách thức không nhỏ được đặt ra cho nền kinh tế nước ta.

2 người bị kỷ luật do kê khai tài sản không trung thực

KHÁNH AN |

Dự thảo báo cáo của Thanh tra Chính phủ cho biết, có 4.427 người được xác minh việc kê khai tài sản, thu nhập, 2 người bị kỷ luật do kê khai không trung thực.

EU có thể nới lỏng trừng phạt Nga

Ngọc Vân |

EU có thể nới lỏng trừng phạt Nga để cứu thỏa thuận ngũ cốc Biển Đen.

Đông Anh lên quận, giao dịch đất nền vẫn ảm đạm, môi giới chán nản

Tuyết Lan |

Huyện Đông Anh (Hà Nội) vừa được HĐND thành phố thông qua đề án thành lập quận. Trái ngược với kỳ vọng của nhiều người, thị trường đất nền tại đây vẫn trầm lắng, chưa khởi sắc rõ rệt.