Trương Nam Hương - câu thơ trong trẻo nỗi buồn

Anh Thư |

Trương Nam Hương sinh năm 1963, tuổi Quý Mão, nhằm mệnh Kim, là một trong những gương mặt thơ hiện đại được bạn đọc yêu mến. Những tập thơ tiêu biểu của anh như: “Khúc hát người xa xứ” (NXB Trẻ - 1995), “Cỏ, tuổi hai mươi’ (NXB Văn nghệ - 1992), “Ban mai xanh” (NXB Đồng Nai, 1994), “Ngoảnh lại tháng năm” (NXB Văn học - 1995), “Viết tặng những mùa xưa” (NXB Thanh Niên -1999) “Ra ngoài ngàn năm” (NXB Văn Học - 2008). Ở thời điểm kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, anh là hội viên trẻ tuổi nhất sở hữu giải thưởng thơ danh giá...

1. Nhiều lần tôi có ý định viết về anh, nhưng một phần vì chưa đọc anh đầy đủ, phần nữa là anh em quen biết đã lâu, để viết về nhau không dễ. Đôi khi, sự lạ lẫm, những ấn tượng ban đầu lại làm nên sức hấp dẫn cho câu chữ hơn là những điều đã thấu tỏ.

Trương Nam Hương gốc Huế, cha tập kết ra Bắc, mẹ là con gái Bắc Ninh. Anh sinh ra, lớn lên ở Hà Nội. Mười hai tuổi theo gia đình vào Sài Gòn. Mẹ mất sớm. Ám ảnh mồ côi, ám ảnh tha hương cứ đi suốt theo anh, đặc biệt mạnh mẽ và da diết trong những năm tháng tuổi đôi mươi. Trải nghiệm ấy giúp anh có được nhiều bài thơ, nhiều câu thơ hay:

“Trong cha có một câu hò / Trong câu hò có con đò sông Hương / Trong sông Hương có nỗi buồn / Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...”

Tôi chưa có dịp nào hỏi anh, rằng vì sao cha mẹ anh lại đặt tên anh như vậy. Nam Hương có phải là phía nam sông Hương, như sự gợi nhắc về nơi chôn nhau cắt rốn? Trong giới cầm bút, Trương Nam Hương không trùng bút danh với ai, cho đến tận bây giờ. Từ họ, đệm, và tên đều là vần bằng - nhẹ nhõm, tĩnh tại, ngát xanh như dòng Hương mở ra bao la nhớ. Tên vận vào người. Tên vận vào thơ. Vậy nên thơ anh gợi nhiều ám ảnh, u hoài nhưng vô cùng trong sáng. Những nỗi nhớ kết tinh, lắng lọc, day dứt. Điều ấy có thể nhận ra ngay từ nhan đề: “Khúc hát người xa xứ”, “Ngoảnh lại tháng năm”, “Viết tặng những mùa xưa”.

Sẽ có ý kiến phải biện lại rằng: Bản chất thơ ca là hướng nội. Văn chương viết về cái đã qua thường sâu sắc thấm thía hơn là viết về những điều đang và sẽ xảy ra. Trương Nam Hương đâu có gì khác biệt. Đúng vậy. Anh không ở ngoài dòng chung đó. Nhưng những day dứt trong anh dường như sâu nặng hơn, là một phần cấu thành nên hơi thở, tâm hồn và cả con người sinh học của anh. Trương Nam Hương trung thành với những yêu mến của mình, có thể giúp đỡ ai đó một cách vô tư, và bao năm cứ thủy chung giữ cách ứng xử như vậy, chẳng để ý đến vật đổi sao dời. Hai mươi tám tuổi giành giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với tập thơ đầu tay - một giải thưởng danh giá của nền văn học nước nhà những năm tháng ấy. Cũng ở thời điểm kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, anh là hội viên trẻ tuổi nhất nhưng đã định hình một giọng thơ riêng, da diết, tài hoa, dễ chạm vào các tầng bậc cảm xúc. Tới nay, những giải thưởng anh nhận được không ít, đặc biệt là những danh hiệu như: “Nhà thơ được yêu thích nhất” do báo Người lao động bình chọn năm 1992, “Gương mặt văn học 20 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 1995”, “Gương mặt văn học 30 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 2005”, chứng tỏ thơ anh không chỉ thuyết phục bạn viết mà còn đến được với người yêu thơ rộng rãi.

Một số tác phẩm của nhà thơ Trương Nam Hương. Ảnh. Anh Thư
Một số tác phẩm của nhà thơ Trương Nam Hương. Ảnh. Anh Thư

2. Ở tuổi trung niên, thơ Trương Nam Hương không còn cái cồn cào thao thiết nhưng đằm mặn hơn - vị đằm mặn của người đã đi qua mất mát, đổ vỡ, đã chứng thực, trải nghiệm và thấm thía. Anh trân trọng hơn thời gian hiện hữu. Sự hóm hỉnh không bị mất đi, mà được đặt đúng lúc đúng chỗ. Anh vẫn thích ngồi cà phê cùng anh em bạn bè, nhưng phải là bạn bè thân quý nhau. Anh vẫn thích đọc thơ mình, những câu thơ chợt đến, những câu thơ đã viết từ thủa nào cũng ùa về hợp tình hợp cảnh.

“Mời em vào quán Thời gian / nâng ly ký ức uống làn hương xưa / Mời em vào quán Không mùa / ta chia nhau ngọn gió mùa rét căm / Mời em vào quán Không năm / để nghe nhớ khóc ướt đầm ngón tay / Mời em vào quán Không ngày / để xem trời thả heo may - Để buồn.../ Đắng lòng môi chạm yêu thương / Thời gian quên bỏ chút đường đấy em!” (Quán Thời gian).

Có vẻ như, nhịp sống này, với những đổi thay chóng mặt không phù hợp tạng người như anh. Gắn bó với Sài Gòn từ thuở thiếu niên, thành công và thanh danh cũng ở đây, yêu vẻ đẹp hiện đại của Sài Gòn nhưng hồn thơ anh thuộc về xứ Huế, thuộc về Kinh Bắc và đặc biệt là thuộc về Hà Nội. Dù không sống ở quê cha, anh vẫn nhận ra giọng chàng trai xứ Huế chỉ qua câu nói đầu tiên. Thương miền quan họ, bởi mối dây ràng buộc thiêng liêng từ mẹ. Và Hà Nội - Hà Nội có cả mẹ cả cha, cả một bầu trời tuổi nhỏ. Trong thơ và trong đời, Trương Nam Hương thường thực hiện nhiều chuyến trở về Hà Nội, nơi ắp đầy mùi hương, âm thanh và dáng vẻ vốn đã nằm sâu trong tâm trí đứa trẻ lên mười: Làn gió heo may, hương hoa sữa, quả bàng chín, trái sấu rơi, tiếng tàu điện leng keng... Những hình ảnh bình dị đời thường đi vào thơ anh mang vẻ đẹp riêng, trong trẻo, bởi anh đã viết bằng trực giác, bằng cái tình nồng nã cùng nỗi nhớ ngậm ngùi, trong nỗi nhớ có không ít nỗi thương mình, thương và nhớ mẹ. Anh thích cái mênh mang sâu thẳm của Hồ Tây nhưng cảm thấy ấm áp hơn với không gian Hồ Gươm xinh nhỏ. Nhìn làn sóng nước Hồ Gươm là nhớ đến làn tóc mẹ. Bên mênh mang sông Hồng lại chạnh lòng thân phận mồ côi:

“Con xa mẹ xa quê biền biệt thế / Hỡi hoa xoan ký ức tuổi lên mười / Chỉ sông Hồng thương mẹ hát đơn côi / Phù sa đỏ như miếng trầu mẹ quệt / Ăn hạt gạo mãi giờ con mới biết / Có sông và đời mẹ ở bên trong” (Với sông Hồng)

3. Trương Nam Hương viết là “xa mẹ” chứ không bao giờ viết là “mất mẹ”. Mẹ vẫn ở trong anh, sâu thẳm, thiêng liêng, truyền cho anh động lực sống và yêu thương cuộc đời. Anh có nhiều bạn bè ở các vùng miền đất nước, trọng nhau vì tài, quý mến nhau vì tính, nhưng tôi dám chắc anh ít người tri kỷ. Ngay cả người bạn thân nhất, có lẽ giữa anh và bạn vẫn chút ít khoảng cách, cái khoảng cách tự nhiên không có lỗi. Bá Nha Tử Kỳ, Nguyễn Khuyến Dương Khuê xưa nay có mấy người. Nếu không tìm được tri âm cũng không phải quá bận lòng. Hạnh phúc vốn được ví như chiếc chăn hẹp, làm sao có thể trọn vẹn cho tất cả. Anh lại còn có thơ. Thơ đem đến cho anh bạn đọc, bạn bè, ít nhiều thành công nổi tiếng. Thơ cũng chưa từng bỏ anh lúc hoạn nạn khó khăn. Bù lại, anh chọn một lối sống giản dị, kín đáo, để không lợi dụng, không làm đau, không phụ bạc chữ nghĩa. Dù đôi khi có thoáng qua chua chát “cũ mèm vần điệu khi gieo”, “đời thơ bèo bọt dăm câu bọt bèo”, thì đấy cũng là tự trách mình, chứ chẳng thể trách thơ. Bằng chứng là khi có tập thơ mới, anh mua riêng một cây bút để nắn nót viết lời đề tặng rồi gửi đi, đầy trân trọng đối với bạn bè gần xa.

Trương Nam Hương mang nhiều nỗi buồn. Nỗi buồn có lý do và cả những nỗi buồn không có lý do, thuộc về bản chất, tạng người, như thể vu vơ không dễ gì nắm bắt, dễ trở thành lạc lõng giữa đám đông. Lần gặp gần đây nhất, anh khoe đã bỏ thuốc lá thành công. Nước da có phần sạm hơn do tuổi tác, nhưng nụ cười thêm tươi tắn an nhiên. Anh như vội vàng hơn, muốn nâng niu, muốn níu giữ, muốn đầm mình sâu hơn vào cái lạnh mùa đông Hà Nội. Nhớ Bắc, anh vẫn giữ giọng Bắc, thích ăn cơm Bắc, và vẫn uống cà phê theo phong cách Hà Nội ở giữa Sài Gòn. Song bây giờ nếu trở về sống ở Hà Nội thì chắc chắn anh không lựa chọn. Bởi Hà Nội trong anh đã thuộc về tâm thức. Hãy cứ để miền ký ức ấy sáng mãi trong lồng ngực, thi thoảng được đập rộn lên hay se thắt. Hà Nội hôm nay đã khác. Nếu chạm vào, sợ rằng miền ký ức ấy sẽ tan vỡ, những ảnh hình không còn tồn tại, và anh dễ gì làm lại được từ những trống vắng? Yêu thương không phải là chiếm hữu. Chính là xa Huế, xa Kinh Bắc, xa Hà Nội, chính là những khắc khoải về thân phận tha hương, cái đa tình đa đoan, nét cứng cỏi đứng ngoài vòng danh lợi, Trương Nam Hương mới có được những vần thơ làm day dứt lòng người:

“Tạ ơn Hà Nội trọn đời / Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo...” (Hà Nội một thời).

Anh Thư
TIN LIÊN QUAN

Nhà thơ Nguyễn Duy: "Thanh bình là phúc của dân tộc"

Lê Thanh Phong |

Gõ cửa nhà thơ Nguyễn Duy sáng mùng một Tết Tân Sửu 2021, lại bày ra chén rượu, lại thơ. Những bài thơ Nguyễn Duy viết về Tết năm xưa, nay vừa rượu, vừa nghe ông đọc nhâm nhi, buồn và thấm.

Ngắm tranh của một nhà thơ

Việt Văn |

“Người thổi sáo”, triển lãm cá nhân hội họa đầu tiên của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều với 60 tác phẩm vừa khai mạc sáng 7.1 tại Trung tâm Art Space thuộc Trường Đại học Mỹ thuật (42 Yết Kiêu, Hà Nội), với một không gian sang trọng để người xem có thể thưởng thức tốt nhất những bức tranh của một nhà thơ tài hoa vẽ thay vì xem tranh của một họa sĩ.

Trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhân triển lãm "người thổi sáo"

Lê Thiết Cương (thực hiện) |

Nguyễn Quang Thiều sinh năm 1957, ông là nhà thơ, nhà văn, dịch giả, bắt đầu vẽ ở tuổi 48 (năm 2005). Ông tổ chức triển lãm chung lần đầu tiên với các nhà văn tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam năm 2005 với tên gọi “Nhà văn vẽ’’. Sau đó ngừng vẽ cho tới năm 2012, ông vẽ trở lại và tham dự triển lãm nhiều lần với nhóm họa sĩ G39. Triển lãm ‘’Người Thổi Sáo’’ là triển lãm cá nhân đầu tiên ông. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.

Sách của nhà thơ, triết gia kiệt xuất Kazakhstan được xuất bản tiếng Việt

Thanh Hà |

Đại sứ Kazakhstan tại Việt Nam Yerlan Baizhanov chia sẻ, cuốn sách "Những lời răn của Abai" là cuốn sách thứ 2 của tác giả người Kazakhstan được xuất bản ở Việt Nam.

Nhà thơ Bằng Việt và bài thơ qua nửa thế kỷ

Anh Thư |

Nhà thơ Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, nguyên quán xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (cũ). Ông là gương mặt nổi bật của thơ hiện đại Việt Nam nửa sau thế kỷ 20. Bước sang thế kỷ 21, ông vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa. Ở mỗi chặng thời gian, thơ ông luôn thể hiện những thay đổi, nhận thức lại chính mình và thế giới xung quanh. “Nghĩ lại về Pautopxki” là bài thơ đánh dấu chặng đầu tiên trong sự thay đổi, nhận thức lại đó của ông.

Khu nghỉ dưỡng ẩn mình giữa rừng thông tuyệt đẹp ở Mộc Châu

Chí Long |

Nằm ngay trung tâm khu du lịch quốc gia Mộc Châu, Phoenix Mộc Châu Resort được bao phủ bởi rừng thông hàng trăm năm tuổi, với không khí trong lành, mát mẻ tựa như Đà Lạt thu nhỏ giữa núi rừng Tây Bắc.

Khởi tố cựu Cục trưởng Cục đăng kiểm Việt Nam

Việt Dũng |

Mở rộng điều tra vụ án sai phạm tại các trung tâm đăng kiểm, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TPHCM vừa khởi tố thêm 5 bị can khác.

Không khí lạnh suy yếu dần, Bắc Bộ nắng hanh và tăng nhiệt

AN AN |

Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia nhận định không khí lạnh tác động mạnh đến Bắc Bộ từ đêm nay đến ngày mai 18.1. Từ ngày 19.1, ngày có nắng hanh và nhiệt độ có xu hướng tăng nhẹ.

Nhà thơ Nguyễn Duy: "Thanh bình là phúc của dân tộc"

Lê Thanh Phong |

Gõ cửa nhà thơ Nguyễn Duy sáng mùng một Tết Tân Sửu 2021, lại bày ra chén rượu, lại thơ. Những bài thơ Nguyễn Duy viết về Tết năm xưa, nay vừa rượu, vừa nghe ông đọc nhâm nhi, buồn và thấm.

Ngắm tranh của một nhà thơ

Việt Văn |

“Người thổi sáo”, triển lãm cá nhân hội họa đầu tiên của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều với 60 tác phẩm vừa khai mạc sáng 7.1 tại Trung tâm Art Space thuộc Trường Đại học Mỹ thuật (42 Yết Kiêu, Hà Nội), với một không gian sang trọng để người xem có thể thưởng thức tốt nhất những bức tranh của một nhà thơ tài hoa vẽ thay vì xem tranh của một họa sĩ.

Trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhân triển lãm "người thổi sáo"

Lê Thiết Cương (thực hiện) |

Nguyễn Quang Thiều sinh năm 1957, ông là nhà thơ, nhà văn, dịch giả, bắt đầu vẽ ở tuổi 48 (năm 2005). Ông tổ chức triển lãm chung lần đầu tiên với các nhà văn tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam năm 2005 với tên gọi “Nhà văn vẽ’’. Sau đó ngừng vẽ cho tới năm 2012, ông vẽ trở lại và tham dự triển lãm nhiều lần với nhóm họa sĩ G39. Triển lãm ‘’Người Thổi Sáo’’ là triển lãm cá nhân đầu tiên ông. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.

Sách của nhà thơ, triết gia kiệt xuất Kazakhstan được xuất bản tiếng Việt

Thanh Hà |

Đại sứ Kazakhstan tại Việt Nam Yerlan Baizhanov chia sẻ, cuốn sách "Những lời răn của Abai" là cuốn sách thứ 2 của tác giả người Kazakhstan được xuất bản ở Việt Nam.

Nhà thơ Bằng Việt và bài thơ qua nửa thế kỷ

Anh Thư |

Nhà thơ Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, nguyên quán xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (cũ). Ông là gương mặt nổi bật của thơ hiện đại Việt Nam nửa sau thế kỷ 20. Bước sang thế kỷ 21, ông vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa. Ở mỗi chặng thời gian, thơ ông luôn thể hiện những thay đổi, nhận thức lại chính mình và thế giới xung quanh. “Nghĩ lại về Pautopxki” là bài thơ đánh dấu chặng đầu tiên trong sự thay đổi, nhận thức lại đó của ông.