Đừng để mất dẫu chỉ là thiểu số

Nhà thơ Phạm Vân Anh |

Nhà văn hóa Phạm Quỳnh có một câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn...”.

Cùng với thời gian, cho đến nay câu nói ấy vẫn giữ nguyên được giá trị của nó khi đồng nhất với quan niệm ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt ý tưởng và chứng minh sự tồn tại của dân tộc.

Trong lịch sử, đã bao phen sống dưới ách đô hộ của giặc ngoại xâm, nhưng tinh thần bất khuất của người Việt trong đấu tranh để bảo tồn ngôn ngữ dân tộc luôn được ghi nhận là biểu hiện xuất sắc của việc chống đồng hóa, giữ bản sắc riêng. 

Thiểu số mà không hề nhỏ

Trong suốt chiều dài lịch sử, có thể nói dân tộc Việt Nam đều phải gồng mình chống đồng hóa bởi các triều đại phương Bắc. Đặc biệt là với ngôn ngữ thì suốt ngàn năm Bắc thuộc, các triều đại Trung Hoa vẫn không thể biến cả dân tộc ta thành người Hán, nói tiếng Hán. Chỉ có một bộ phận nhỏ trí thức và quan lại ở kinh kỳ, phố thị mới học nói tiếng Hán, viết chữ Hán.

Còn ở làng xã thì vẫn tồn tại với tiếng Việt. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã khẳng định rằng: Tiếng tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt hơn 1.000 năm trước đây so với hiện nay vẫn giữ được nguyên gốc cơ bản dù có đôi chút biến đổi theo thời đại.

Tất nhiên, người Việt cũng đã rất khôn ngoan khi tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn hóa của người Hoa Hạ với một số lượng lớn từ Hán - Việt được tiếp thu và Việt hóa về ý nghĩa cũng như âm vận, làm giàu thêm ngôn ngữ dân tộc.

Nhận định về vấn đề này, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu sinh thời nói rằng: “Bị đô hộ hàng mười thế kỷ bởi một nước có văn hóa cao hơn, số dân đông hơn gấp bội mà sau mấy ngàn năm - Ta vẫn là ta - hẳn không phải vì mũi tên nhọn hơn, bắp thịt cứng hơn mà chủ yếu là nhờ văn hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của riêng mình, chứ lấy sức đọ sức, lấy số đọ số thì dân Việt Nam, nước Việt Nam chỉ còn là đối tượng khảo cổ học”.

Ở thời kỳ cận đại, chúng ta thấy rằng người Pháp sau khi hoàn toàn đô hộ nước ta đã bắt đầu quan tâm đến khu vực biên giới. Khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam là khu vực nhạy cảm nhất. Vì thế ngay từ đầu thế kỷ XX Pháp đã bắt đầu cho người đi nghiên cứu ngôn ngữ văn hóa nơi đây để tìm cách bình định và lôi kéo các dân tộc thiểu số.

Linh mục F.M Savina là người được giao nhiệm vụ đi truyền giáo ở vùng phía Bắc Đông Dương và đã từng có 4 năm đi khắp núi rừng miền Bắc để ghi chép tiếng nói và phong tục thờ cúng tín ngưỡng của vùng này, song việc truyền giáo đã không thành công.

Tiếp sau đó, đã có nhiều nhà văn hóa, sĩ quan quân đội Pháp được cử đến khu vực miền núi phía Bắc cũng với nhiệm vụ như linh mục F.M Savina. Họ đã ghi chép, văn bản hóa được nhiều tài liệu ngôn ngữ có giá trị về một số dân tộc ít người trên địa bàn mà họ tiếp xúc.

Ngay cả khi Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, họ vẫn tiếp tục các dự án nghiên cứu văn hóa ngôn ngữ dân tộc vùng biên giới phía Nam và Tây Nguyên với nhiều mục đích. Các tài liệu nghiên cứu rất giá trị đó hiện lưu giữ tại Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp và có những ảnh hưởng quan trọng đối với các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam hiện nay.

Có thể thấy rằng, những bản sắc dân tộc mạnh mẽ của vùng dân tộc phía Bắc hay Tây Nguyên đã cản trở Pháp thực hiện mưu đồ đồng hóa các dân tộc ở đây. Chính sự phong phú bản sắc dân tộc đã góp phần giành độc lập bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, kết nối các dân tộc thiểu số cũng như đa số cùng đứng lên giành lại độc lập tự do.

Sự cáo chung của ngôn ngữ thiểu số

Theo số liệu thống kê dân số năm 2009, dân tộc Kinh chiếm 86,2%. Con số 13,8% được chia cho 53 dân tộc ít người còn lại. Sự giao lưu văn hóa, thông thương đã giúp các dân tộc thiểu số dần hòa nhập với cộng đồng chung nhưng cũng có nhiều tác động khiến cho văn hóa truyền thống của dân tộc này dần mai một và dẫn đến sự thất truyền.

Những người dân tộc thiểu số đang ở độ tuổi thành niên hiện nay có thể nói và viết thông thạo ngôn ngữ của dân tộc mình cũng chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn. Nhất là với những người đã và đang sống hòa nhập cùng người Kinh thì việc hòa nhập nhanh chóng với ngôn ngữ chung còn là cách nhanh nhất để đẩy lùi lạc hậu, tiệm cận với các giá trị mới.

Đơn cử như việc dịch sử thi Tây Nguyên chẳng hạn, cho đến nay số người có thể hiểu được ngôn ngữ cổ trong các Khan, Hơ mon của các dân tộc Ba Na, Ê đê, Gia rai, Xơ đăng còn rất ít, trong khi đội ngũ kế cận thì hoàn toàn trống vắng.

Trên thực tế, câu chuyện này không chỉ xảy ra với Việt Nam mà còn là vấn đề chung của thế giới. Nhiều vùng lãnh thổ khi sáp nhập vào các nước lớn đã chỉ sử dụng ngôn ngữ phổ thông của quốc gia đó, dẫn đến việc thúc đẩy nhanh hơn sự biến mất của các ngôn ngữ đại diện cho vùng miền hay dân tộc.

Nhà ngôn ngữ học Claude Hagéne ước tính là mỗi năm trên thế giới có khoảng 25 ngôn ngữ bị chôn theo cùng với sự qua đời của người sử dụng cuối cùng ngôn ngữ ấy.

Tại Việt Nam, nhiều dân tộc không còn chữ viết riêng, tiếng nói riêng... một phần là bởi họ quá nghèo khổ, khó khăn nên không có điều kiện văn bản hóa ngôn ngữ của dân tộc mình, phần khác là do ngôn ngữ ấy bị cô lập, không cần thiết với những cộng đồng xung quanh. Bản thân những người của dân tộc ấy muốn giao thương, làm ăn buôn bán với dân tộc khác thì phải học tiếng phổ thông. Điều đó dần trở thành thói quen và ngày càng ít người dùng tiếng của dân tộc mình để trao đổi trong sinh hoạt thường ngày. Khi một ngôn ngữ biến mất, thế giới sẽ mất đi một phương pháp tư duy, một cách nhìn nhận thế giới quanh ta.

Nhiều người quan niệm rằng, cùng với quy luật sinh tồn, tự đào thải ngàn đời nay, thì mạnh tất thắng, yếu tất thua và tự diệt vong nên việc bảo tồn ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số là vấn đề của chính dân tộc ấy, Nhà nước không nhất thiết phải đổ tâm sức, tiền của vào việc này.

Trong suy nghĩ của người viết bài này, ý kiến trên có phần hơi hẹp lượng bởi nếu suy rộng ra, với tình trạng thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay thuộc sử nước ngoài hơn sử ta, nói tiếng Anh, Pháp, Nhật, Hoa đúng ngữ pháp hơn nói tiếng Việt thì một ngày nào đó, để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, chúng ta một nước nhỏ bé, phải tự bỏ ngôn ngữ tiếng Việt mà ông cha bao năm gìn giữ trước sức mạnh kinh tế, khoa học của các cường quốc hay sao?

Lâu nay chúng ta vẫn luôn kêu gọi bảo tồn những loài động thực vật quý... hiếm hay những di sản vật thể. Vậy thì việc bảo tồn ngôn ngữ dân tộc ít người cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng, bởi đó chính là bảo vệ tính đa dạng văn hóa của dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến các dân tộc ít người, cũng là để khẳng định chủ quyền đất nước mình.

Bài toán nào cho sự song tồn?

Trong một bài viết của mình, Tiến sĩ Trần Thu Dung hiện sống và làm việc tại Pháp đã cho rằng: “Bảo vệ ngôn ngữ văn hóa dân tộc ít người là bảo vệ một tài nguyên thiên nhiên, một bảo tàng sống, một nguồn du lịch để giúp phát triển kinh tế đất nước và đánh dấu chủ quyền của đất nước. Khi chúng ta chưa đủ mạnh về quân sự thì ta nên dùng văn hóa để bảo vệ chủ quyền”.

Nếu nhìn lại lịch sử cùng những câu chuyện chống đồng hóa, quyết liệt giữ gìn ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số đã nói ở phần trên, thì nhận định này là hết sức đúng đắn. Không chỉ thế, ngôn ngữ dân tộc ít với lối diễn đạt trong sáng, biết đâu đó chính là cội nguồn xa xưa của ông cha chúng ta. Biết đâu, cùng với quá trình các bộ tộc xưa lưu lạc khai khẩn mở mang bờ cõi, ngôn ngữ phát triển dần và du nhập thêm cái mới, còn các nhóm ở lại đất cũ, ít giao tiếp với các nền văn hóa khác nên vẫn giữ được cái cổ xưa.

Bảo tồn tiếng nói không những là bảo tồn văn hóa, sắc thái đa dạng phong phú của một đất nước, do nhiều bộ lạc hợp lại, mà đồng thời cũng bảo tồn được ngôn ngữ cổ của ông cha. Đó cũng là một vũ khí để chứng minh nguồn gốc dân tộc và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Thiết nghĩ đã đến lúc các nhà ngôn ngữ Việt Nam phải thống kê xem có bao nhiêu ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã và đang suy vong; tìm ra một phương pháp để bảo tồn hữu hiệu, sinh động trực quan hơn là chỉ đơn giản ghi chép, thu âm rồi bảo quản cẩn thận trong các kho lưu trữ?

Giải pháp được nhắc đến nhiều hiện nay là việc tổ chức học song đồng ngôn ngữ Kinh và ngôn ngữ dân tộc ít người. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chú trọng đến việc bảo tồn và giữ gìn tiếng nói các dân tộc với các dự án khảo sát và xây dựng các chiến lược lâu dài cho vấn đề này.

Nhiều ngôn ngữ Ba Na, Gia Rai, Cơ Tu... được đầu tư xây dựng chữ viết, xây dựng các bộ từ điển, các bộ giáo trình học tiếng... Bên cạnh đó, các phong tục truyền thống mang đậm văn hóa dân tộc cũng được đề cao cùng với sự phục hồi các sinh hoạt lễ hội, tín ngưỡng, văn hóa, thể thao...

Nhiều bộ chữ, nhiều sách giáo khoa, nhiều trường học dạy song song chữ dân tộc và chữ Quốc ngữ, học sinh theo học các trường này được hỗ trợ học bổng. Các công chức nhà nước, sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang công tác tại vùng dân tộc thiểu số được khuyến khích học tiếng dân tộc thiểu số như một sinh ngữ căn bản.

Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh ở đây là để đạt được những mục đích này, căn bản vẫn cần đến ý thức, thái độ chủ động của các dân tộc. Bà con phải giữ vai trò chủ thể trong việc nâng cao vị thế của chính dân tộc mình. Có như vậy mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mới có cơ hội phát huy rộng rãi và có hiệu quả cao.

Dẫu nhỏ bé, nhưng những dân tộc thiểu số trên đất nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng trong giữ gìn chủ quyền và độc lập dân tộc. Những giá trị ngôn ngữ, văn hoá bao đời được lưu giữ và phục dựng của các dân tộc thiểu số đã dệt thêm gấm hoa cho bức tranh văn hoá đa sắc màu của đất nước.

Bảo vệ ngôn ngữ văn hóa dân tộc ít người là bảo vệ một tài nguyên thiên nhiên, một bảo tàng sống, một nguồn du lịch để giúp phát triển kinh tế đất nước và đánh dấu chủ quyền của đất nước. Ngôn ngữ và văn hóa dân tộc ít người cũng là một di sản phi vật thể sống động cần được bảo tồn.

GS.TS Nguyễn Văn Hiệp - Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học từng đề xuất có Hội đồng quốc gia về ngôn ngữ để tư vấn và ra những quyết định có liên quan đến sự giữ gìn và phát triển tiếng Việt. Đồng thời, ông cũng kiến nghị có “Ngày Ngôn ngữ Việt Nam” để tôn vinh tiếng Việt và ngôn ngữ của đồng bào các dân tộc anh em. Ở mức độ cao hơn, ông cùng nhiều nhà khoa học đã đề xuất cần hoàn thiện xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để luật hóa bằng bộ Luật Ngôn ngữ.

Trao đổi với Lao Động, GS.TS Nguyễn Văn Hiệp cho biết hiện vẫn chưa thể hiện thực hóa Luật Ngôn ngữ bởi “chúng ta vẫn còn đang nghiên cứu. Đối với việc bảo tồn ngôn ngữ của đồng bào các dân tộc thiểu số thì Nhà nước đang giao Bộ Khoa học - Công nghệ triển khai một chương trình rất lớn là “Một số vấn đề cấp bách trong việc bảo tồn và phát huy vai trò, bản sắc ngôn ngữ các dân tộc Việt Nam, góp phần phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh công nghiệp hóa, đổi mới, hội nhập”. Trong đó có 8 đề tài nhỏ, năm tới sẽ được triển khai”.

PGS.TS Tạ Văn Thông (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) nhận định: Xu hướng hội nhập quốc tế làm tăng nguy cơ suy giảm các ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong khi đó, ngôn ngữ không chỉ là một phần của của văn hóa mà còn là phương tiện để thống nhất ý chí và củng cố sức mạnh đoàn kết dân tộc. Không những vậy, việc bảo tồn ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số còn thể hiện vị thế bình đẳng giữa các dân tộc, thể hiện sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam.

Việc bảo tồn ngôn ngữ các dân tộc thiểu số không phải là nhiệm vụ của riêng ngành ngôn ngữ mà còn cần tới sự chung tay của các ngành khoa học xã hội khác như giáo dục học, dân tộc học, văn hóa học, tâm lý học và cả các nhà hoạch định chính sách.

Ở nước ta, những năm gần đây đã có một số ngôn ngữ DTTS được sử dụng như đối tượng hoặc phương tiện dạy - học trong một số trường phổ thông và các cơ sở giáo dục khác ở vùng DTTS. Đồng thời, một số ngôn ngữ đang được sử dụng trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các đài phát thanh và truyền hình địa phương như Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Chăm, Mông, Thái, Xê Đăng, Tày, Hà Nhì, Hrê, Cà Tu... Một số ngôn ngữ DTTS đã được sử dụng để in các tác phẩm văn nghệ truyền thống, các sáng tác mới; để biên soạn các từ điển đối chiếu song ngữ, các sách miêu tả ngữ pháp, các sách giáo khoa... Những hoạt động kể trên bước đầu đã mang lại điều kiện tồn tại cho một số ngôn ngữ DTTS.

Chuyên gia nghiên cứu văn hóa dân tộc thiểu số Lê Duy Đại cho rằng việc đầu tư dạy ngôn ngữ dân tộc cho trẻ em là người dân tộc thiểu số thời gian qua là rất hữu ích. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải đầu tư nhiều hơn nữa. Ví dụ như cần kéo dài đến hết cấp hai, mở rộng đối tượng đào tạo và phải ứng dụng ngôn ngữ ấy trong đời sống thường ngày của đồng bào. Thậm chí các ấn phẩm in cũng nên dịch sang tiếng dân tộc, mở mang đời sống văn hóa như vậy mới nâng cao được trình độ ngôn ngữ mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc.

Nhà thơ Phạm Vân Anh
TIN LIÊN QUAN

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có nhiều giải pháp hỗ trợ người lao động mất việc

PHƯƠNG NGÂN - CHÂN PHÚC |

TPHCM - Tại LĐLĐ quận Bình Thạnh, sáng ngày 17.1, ông Trần Thanh Hải - Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam đã đến thăm, động viên và trao quà Tết cho người lao động có hoàn cảnh khó khăn đang làm việc trên địa bàn. Đồng thời, ông Trần Thanh Hải cũng đã thông tin một số giải pháp nhằm hỗ trợ người lao động bị mất việc, giảm việc.

Khoảnh khắc AFF Cup: Khép lại hành trình của ông Park Hang-seo

NHÓM PV |

Bản tin Khoảnh khắc AFF Cup ngày 17.1. AFF Cup 2022 kết thúc, khép lại hành trình của huấn luyện viên Park Hang-seo với bóng đá Việt Nam.

Hệ luỵ từ vụ Công đoàn ACB mua chui cổ phiếu bị xử phạt 3 tỉ đồng

Lan Hương |

Thông tin Công đoàn ngân hàng ACB mua chui cổ phiếu ACB đã thu hút sự quan tâm đặc biệt. Động thái trên đã ảnh hưởng đến sự minh bạch của thị trường chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán đang bị ảnh hưởng nặng nề.

Rung lắc thượng tầng tại Eximbank: Thập kỷ rối ren chưa kết thúc

Đức Mạnh |

Cơ cấu thượng tầng tại Ngân hàng Eximbank đã có nhiều biến động mạnh. Cổ đông ngoại gắn bó 16 năm đã chuyển nhà, thế chân bởi nhân tố bí ẩn liên quan đến Tập đoàn Bamboo Capital.

Cha đẻ của mèo AI mà cư dân mạng nhầm tưởng ở Ninh Thuận lên tiếng

Hữu Long |

Nguyễn Lê Thái Nguyên vẽ mèo Tết bằng công nghệ AI rồi chia sẻ lên trang cá nhân. Những hình ảnh tuyệt đẹp về mèo nhận được vô số lời khen từ nhiều người bạn. Có không ít người đến nay vẫn nhầm lẫn đây là mèo Tết có nguồn gốc từ Ninh Thuận.

Cận Tết, showroom xe ôtô cũ chấp nhận bán hòa, cắt lỗ để thu hồi vốn

LÂM ANH |

Cuối năm thường là mùa thu hoạch của thị trường xe ôtô cũ nhưng năm nay điều này đã không đến bởi việc ngân hàng siết cho vay, lãi suất cao đã khiến lượng khách hàng giảm đi đáng kể. Những ngày cuối cùng trước khi nghỉ Tết, chủ showroom chấp nhận bán hòa vốn hay thậm chí, bán cắt lỗ để thu hồi vốn trước Tết.

Xu hướng công khai tiền lương ở Mỹ: Ai sẽ được hưởng lợi?

Thanh Hà |

Luật thanh toán minh bạch ở Mỹ góp phần giảm chênh lệch tiền lương.

3 phim Việt ra rạp đúng mùng 1 Tết: Tác phẩm nào có khả năng thắng thế?

Chí Long |

3 phim điện ảnh Việt đồng loạt ra mắt đúng mùng 1 Tết Quý Mão 2023 là Chị chị em em 2, Siêu lừa gặp siêu lầyNhà bà Nữ.