Hội thảo Hiệp định EVFTA - Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU

Nhóm PV |

8h sáng nay (20.11), Báo Lao Động phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức Hội thảo “Hiệp định EVFTA - Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU”.

Phiên 2 hội thảo:

Phiên 1 hội thảo:

Tổng Biên tập Báo Lao Động Nguyễn Ngọc Hiển: “Tìm giải pháp giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh”

Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Ngọc Hiển – Tổng Biên tập Báo Lao Động cho biết, từ ngày 1.8.2020, Hiệp định Tự do thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA) chính thức có hiệu lực. EVFTA được ví von như "con đường cao tốc" dẫn hàng hóa Việt vào thị trường Châu Âu, đặc biệt là các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam là nông thủy sản. Chinh phục được thị trường EU đồng nghĩa với việc chinh phục được một sân chơi lớn vô cùng tiềm năng với quy mô dân số hơn 500 triệu người và GDP đạt 15.000 tỉ USD.

Tuy nhiên, với những đòi hỏi khắt khe của thị trường EU, một mình doanh nghiệp hay người nông dân Việt Nam không thể “đơn thương độc mã” tiến vào thị trường này. Bởi vậy, mối liên kết giữa ngân hàng – doanh nghiệp - nông dân trong chuỗi giá trị là con đường tất yếu chinh phục thị trường Châu Âu khó tính.

Tổng Biên tập Báo Lao Động Nguyễn Ngọc Hiển phát biểu. Ảnh: Tô Thế
Tổng Biên tập Báo Lao Động Nguyễn Ngọc Hiển phát biểu. Ảnh: Tô Thế

Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đồng hành cùng người nông dân, các doanh nghiệp phát triển, tháo gỡ khó khăn về vốn để người nông dân đầu tư sản xuất nông nghiệp theo mô hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp Việt cải tiến dây chuyền, nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp hàng hoá Việt Nam có thể tiến sâu vào thị trường EU, mở rộng thị phần và xuất khẩu bền vững.

“Đó là lý do, hôm nay, Báo Lao Động phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để tổ chức Hội thảo “Hiệp định EVFTA: Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU” để làm rõ bức tranh tổng thể, từ khâu chính sách hỗ trợ của các bộ, ban ngành đến thực tế tiếng nói từ phía doanh nghiệp, người dân. Cùng tìm các giải pháp giúp cho người nông dân và doanh nghiệp Việt tăng năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu sau khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực.

Tôi vui mừng vì hôm nay có thể mời được những chuyên gia giỏi hàng đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, nông nghiệp, đại diện Ngân hàng Nhà nước, đại diện Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để trao đổi và cùng lắng nghe những câu chuyện thật từ phía người nông dân, các doanh nghiệp đang trực tiếp xuất khẩu nông, thuỷ sản sang thị trường EU, câu chuyện từ phía Ngân hàng Agribank – ngân hàng luôn giữ vai trò chủ lực trong đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Tổng Biên tập Nguyễn Ngọc Hiển cho biết.

Theo ông Nguyễn Ngọc Hiển, mục tiêu của hội thảo hướng đến nhằm tạo diễn đàn trao đổi thông tin giữa người nông dân, doanh nghiệp, ngân hàng, các nhà quản lý, nhà nghiên cứu, về các vấn đề xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Chỉ ra địa chỉ cung cấp nguồn vốn thuận lợi, hiệu quả giúp doanh nghiệp và người nông dân dễ dàng tiếp cận.

Đồng thời, tạo cơ sở cho các cơ quan báo chí, truyền thông nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến các thông tin có chất lượng, mang tính thực tiễn, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động báo chí để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao năng lực sản xuất, tham gia sâu vào chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Tô Thế
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Tô Thế

Khung chính sách hỗ trợ hình thành vùng nông sản đạt chuẩn EU

Phát biểu mở đầu cho phiên thảo luận thứ nhất tại hội thảo, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết: Tổng dư nợ của nền kinh tế hiện nay khoảng hơn 9 triệu tỉ đồng. Tốc độ năm 2020 có thể chậm hơn so với các năm trước do COVID-19 cũng như tác động của thiên tai, bão lũ. Lĩnh vực cho vay nông nghiệp - nông thôn chiếm khoảng 2,16 triệu tỉ.

Trong 2,16 triệu tỉ đồng nói trên có 27.000 tỉ cho lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao; 5.000 tỉ cho những doanh nghiệp tham gia vào chuỗi liên kết giá trị. Trong đó, Agribank là ngân hàng chủ lực trong cho vay nông nghiệp, nông thôn. Với mạng lưới rộng khắp, thì dư nợ của Agribank theo chúng tôi nắm được là khoảng hơn 86.000 tỉ đồng, chiếm đến 40% tổng dư nợ của nông nghiệp nông thôn cả nước.

Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú. Ảnh: Tô Thế
Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú. Ảnh: Tô Thế

Cũng theo ông Đào Minh Tú, điều cần quan tâm là làm sao dòng vốn phải hướng vào nông nghiệp công nghệ cao, hướng vào chuỗi giá trị. Bởi EVFTA là một con đường thênh thang cho các doanh nghiệp, chúng ta tận dụng được chính sách ưu đãi thuế của các nước EU nhưng cũng không ít trở ngại cho doanh nghiệp.

Đầu tiên là chất lượng sản phẩm làm sao đáp ứng thị trường khó tính như EU. Tiếp đến là làm sao để giá cả cạnh tranh được với hàng hóa của các nước khác.

“Điều này thì các Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương đã cùng đưa ra nhiều giải pháp, vào cuộc rất tích cực. Với riêng ngành ngân hàng, chúng tôi đã nhìn thấy câu chuyện cần phải phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp là sống còn, từ trước khi có EVFTA” - Phó Thống đốc NHNN chia sẻ.

Ông Đào Minh Tú thông tin, đến nay, dư nợ cho nông nghiệp công nghệ cao mới đạt 27.000 tỉ và chưa phải là con số mong đợi.

Cách đây 4 năm, tại một hội nghị ở TPHCM, Thủ tướng đã giao cho ngành ngân hàng có ngay gói 50.000 tỉ đồng cho lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Và chúng tôi cũng đã có ngay gói này. Sau đó, một sự kiện ở Hà Nam, có một dự án ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao trồng rau tại Hà Nam, Thủ tướng thấy đó là con đường đi lên của nông nghiệp nên có giao thêm 1 con số nữa là 100 ngàn tỉ. Tôi cũng đã nhận nhiệm vụ với Thủ tướng là có 100 ngàn tỉ cho nông nghiệp công nghệ cao.

Các ngân hàng cũng đã rất hưởng ứng con số 100 ngàn tỉ đó, Thế nhưng đến nay, dư nợ cho nông nghiệp công nghệ cao mới đạt 27.000 tỉ. Đây là con số mà ngành ngân hàng chúng tôi rất suy nghĩ”, ông Đào Minh Tú nói.

Ngoài ra có vấn đề chuỗi liên kết trong nông nghiệp cũng rất cần lưu ý. Cách đây khoảng 5 năm, có 22 dự án chuỗi liên kết thí điểm được đưa vốn mạnh mẽ vào. Sau đó, mở rộng ra được một số doanh nghiệp. Nhưng đến nay, dư nợ mới chỉ ở mức 5.000 tỉ, ở mức mà ngành ngân hàng đánh giá là khiêm tốn.

“Rõ ràng, chủ trương của Đảng và Nhà nước rất ủng hộ; cơ chế chính sách không thiếu; rồi có mạng lưới rộng khắp của các tổ chức tín dụng, vậy mà tại sao vốn vào 2 lĩnh vực nói trên vẫn chưa gia tăng được? Chưa phát triển nhanh được? Đây là vấn đề mà chúng ta phải thảo luận” - Phó Thống đốc Đào Minh Tú đặt câu hỏi với các chuyên gia để cùng thảo luận.

Nêu ý kiến về các vấn đề Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú vừa đặt ra, bà Hà Thu Giang – Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng và Các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) thừa nhận rằng, đầu tư tín dụng với các mô hình liên kết phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn nhiều hạn chế”.

Bà Hà Thu Giang – Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng và Các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) phát biểu. Ảnh: Tô Thế
Bà Hà Thu Giang – Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng và Các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) phát biểu. Ảnh: Tô Thế

Theo bà Giang, việc phát triển ứng dụng công nghệ cao, liên kết trong nông nghiệp được coi là một xu hướng tất yếu và là một trong những giải pháp then chốt trọng tâm, nhằm nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, hướng tới sự phát triển nông nghiệp bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Về cơ chế, chính sách tín dụng khuyến khích nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, liên kết trong sản xuất nông nghiệp, bà Giang cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành, triển khai nhiều chính sách để hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực này. Từ Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12.4.2010, sau đó được thay thế bởi Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 9.6.2015 và gần đây nhất là Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 7.9.2018 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP.

Những chính sách đó đã đạt được những kết quả tích cực. Đến nay đã có trên 80 tổ chức tín dụng và 1.181 quỹ tín dụng nhân dân tham gia cho vay nông nghiệp nông thôn với địa bàn rộng khắp cả nước. Tính bình quân giai đoạn 2016-2019, tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt 19,83%, cao hơn mức tăng 16,02% tín dụng chung của nền kinh tế.

“Năm 2020, mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, bão lũ, dịch tả lợn Châu Phi…, song tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vẫn có tăng trưởng khá. Đến cuối tháng 10.2020 ước đạt trên 2,17 triệu tỉ đồng, tăng 6,5% so với cuối năm 2019, chiếm gần 25% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế” - bà Giang chia sẻ.

Về những khó khăn, hạn chế, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng và Các ngành kinh tế cho hay, việc triển khai cho vay liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp của các tổ chức tín dụng trong thời gian qua còn gặp một số khó khăn, thách thức như: Đầu tư tín dụng đối với các mô hình liên kết còn nhiều hạn chế do hợp đồng liên kết thiếu chặt chẽ, hiện tượng vi phạm hợp đồng liên kết của người dân;

Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là lĩnh vực có vốn đầu tư lớn, tuy nhiên hiện nay số lượng các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và số lượng doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được công nhận chưa nhiều; chưa có nhiều mô hình bài bản, hiệu quả, nguồn lực tài chính yếu.

Sản xuất nông nghiệp luôn tiềm ẩn rủi ro do thiên tai, dịch bệnh. Đặc biệt trong giai đoạn gần đây, ngành nông nghiệp đang phải chịu ảnh hưởng kép: vừa bị ảnh hưởng xấu do dịch bệnh….

Về giải pháp trong thời gian tới, theo bà Giang, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tỉ giá, lãi suất góp phần ổn định nền tảng vĩ mô để các tổ chức, cá nhân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp trong đó mạnh dạn đầu tư nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, mở rộng liên kết chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu.

Chỉ đạo các tổ chức tín dụng: Đẩy mạnh cho vay nông nghiệp, nông thôn, trong đó khuyến khích phát triển ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch và chuỗi liên kết trong nông nghiệp;

Đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng phù hợp với từng phân khúc, đối tượng khách hàng tham gia chuỗi liên kết, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao;

Triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh; cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục vay vốn để nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay…

Cũng theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 17.11.2020, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt 8.790.536 tỉ đồng, tăng 7,26% so với cuối năm 2019 (cùng kỳ năm 2019 là 10,28%); trong đó tín dụng bằng VNĐ tăng 7,76%, tín dụng ngoại tệ giảm 0,69%.

Về tín dụng ngành kinh tế, dư nợ tín dụng đối với ngành nông, lâm, thủy sản đến 30.10.2020 ước tăng 5,22% so với 31.12.2019. Dư nợ tín dụng đối với ngành công nghiệp và xây dựng đến 30.10.2020 ước tăng 5,81% so với 31.12.2019.

Dư nợ tín dụng ngành TMDV đến 30.10.2020 ước tăng khoảng 8,2% so với 31.12.2019.

Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên gồm: Tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đến 30.10.2020 ước tăng 6,5% so với cuối năm 2019;

Tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu đến 30.10.2020 ước tăng khoảng 10% so với cuối năm 2019; Tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ và vừa đến 30.10.2020 tăng 7,21% so với cuối năm 2019; Tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đến 30.10.2020 ước giảm 3,83% so với cuối năm 2019.

- Tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến 30.10.2020 ước giảm 0,81% so với cuối năm.

Về kết quả hỗ trợ COVID theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN, đến 9.11.2020, các TCTD đã: (i) cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 272.183 khách hàng với dư nợ 341.855 tỷ đồng; (ii) miễn, giảm, hạ lãi suất cho 552.725 khách hàng với dư nợ 931.018 tỷ đồng; (iii) cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ 23.1 đến nay đạt 2.017.761 tỉ đồng cho 356.385 khách hàng.

Riêng NHCSXH (không thuộc đối tượng của Thông tư 01/2020/TT-NHN), cũng đã thực hiện gia hạn nợ cho 166.709 khách hàng với dư nợ 4.163 tỉ đồng, cho vay mới đối với 1.834.877 khách hàng với số tiền 66.773 tỉ đồng.

Kết quả hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn vốn vay cho khách hàng bị ảnh hưởng bão lũ miền Trung và Tây Nguyên đợt tháng 10-11.2020, đến 15.11.2020, các TCTD đã: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 1.360 khách hàng với dư nợ gần 109 tỉ đồng; (ii) Miễn giảm lãi vay cho 13.458 khách hàng với dư nợ được miễn, giảm lãi là 6.941 tỉ đồng; (iii) Cho vay mới để khôi phục sản xuất đối với 2.545 khách hàng với doanh số cho vay đạt 774 tỉ đồng; (iv) Riêng NHCSXH đang thực hiện khoanh nợ cho 2.087 khách hàng với dư nợ 85,93 tỉ đồng, xóa nợ cho 23 khách hàng số tiền 470 triệu đồng.

"Tận dụng tối đa cơ hội từ EVFTA - cần chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất"

Còn theo TS Nguyễn Quốc Toản – Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), để giúp nông dân, doanh nghiệp tận dụng tối đa cơ hội từ EVFTA, cần phải chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất.

Cụ thể, theo TS Nguyễn Quốc Toản, lâu nay nông nghiệp Việt Nam được xác định có vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế. Bởi, sản xuất nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho đất nước, có trách nhiệm với quốc tế; đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế đất nước; phát huy lợi thế so sánh quốc gia. Đồng thời là yếu tố nền tảng, ổn định để hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của các FTAs.

TS Nguyễn Quốc Toản – Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn). Ảnh: Tô Thế
TS Nguyễn Quốc Toản – Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn). Ảnh: Tô Thế

Để tận dụng tối đa cơ hội xuất khẩu sang thị trường EU, theo ông Toản, thời gian vừa qua, ngành nông nghiệp tích cực chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất.

Trong đó, cơ cấu sản xuất được điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương, vùng, miền và cả nước, gắn với nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, hội nhập quốc tế; Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm có sự thay đổi rõ nét, tăng tỉ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như thủy sản; rau, hoa, quả nhiệt đới; đồ gỗ và lâm đặc sản.

Ngành Nông nghiệp cũng áp dụng quy trình sản xuất theo chuỗi tiên tiến, như quy trình sản xuất tiên tiến, chuẩn hóa (VietGAP, Global GAP...) được nhân rộng; chuyển mạnh mẽ từ sản xuất theo hộ gia đình riêng lẻ sang mô hình sản xuất hợp tác, liên kết quy mô lớn theo chuỗi, ứng dụng công nghệ cao.

Đồng thời đồng bộ khung khổ thể chế (Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn….) xây dựng nền nông nghiệp thông minh, tối ưu hóa các nguồn lực. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hữu cơ.

“Ngành nông nghiệp, thời gian vừa qua cũng tích cực phát triển hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi. Theo thống kê, đến tháng 10.2020, cả nước đã phát triển mô hình chuỗi với 1.636 chuỗi, bao gồm 2.346 sản phẩm và 2.991 địa điểm bán sản phẩm đã kiểm soát theo chuỗi. Có sự tham gia mạnh mẽ của hơn 13.038 doanh nghiệp, 16.000 hợp tác xã, trong đó nhiều tập đoàn sản xuất nông nghiệp lớn”, TS Toản nói.

Trong thời gian tới, để giúp giúp nông dân, doanh nghiệp nâng cao năng lực hội nhập, Cục trưởng Cục chế biến và Phát triển thị trưởng nông sản - cho hay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tiếp tục tuyên truyền phổ biến người dân, doanh nghiệp về Hiệp định EVFTA;

Phổ biến đến cấp cơ sở (huyện, xã..) các quy định kỹ thuật, rào cản kỹ thuật trong thương mại nông lâm thủy sản của thị trường EU;

Tổ chức sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm theo các quy định quốc tế; xây dựng, hài hòa các tiêu chuẩn, quy chuẩn đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của thị trường EU;

Nâng cao năng lực của các tổ chức nông dân, qua đó tăng cường năng lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn trên thị trường nội địa.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng xây dựng cơ cấu sản phẩm theo 3 trục sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu: Nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia; Nhóm sản phẩm nông, đặc sản cấp tỉnh và Nhóm đặc sản địa phương;

Tập trung xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại ngành giai đoạn 2021-2025 nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng hàng nông sản và hiệu quả sản xuất, kinh doanh;

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao thích ứng biến đổi khí hậu, nông nghiệp 4.0;

Triển khai mạnh mẽ xây dựng mã số vùng trồng, chỉ dẫn địa lý, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, chứng chỉ bền vững…

Công nghệ cao là chìa khóa mở cánh cửa thị trường Châu Âu

Để tận dụng tối đa cơ hội từ EVFTA, theo bà Bùi Thị Thanh An - Phó cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương), nông sản Việt Nam là mặt hàng rất có tiềm năng xuất khẩu sang Châu Âu. Theo Hiệp định EVFTA, EU cam kết bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam, trong đó sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý thuộc ngành hàng nông, thủy sản chiếm 62% (Cụ thể: Hàng rau quả chiếm 49%, thủy sản và chế biến từ thủy sản chiếm 13%), còn lại sản phẩm cây công nghiệp - chế biến và các sản phẩm khác chiếm 38%.

Tuy nhiên, EU vốn nổi tiếng là một thị trường khó tính, các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, tem nhãn, bao bì đều quy định rất chặt chẽ, khắt khe. Vì vậy, theo bà Bùi Thị Thanh An, công nghệ cao chính là then chốt giúp nông sản Việt Nam có thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng cao từ thị trường EU.

“Không đảm bảo được những điều kiện ngặt nghèo về chất lượng thì sẽ vô hiệu hóa các lợi thế mà EVFTA mang lại”- bà Bùi Thị Thanh An nói.

Bà Bùi Thị Thanh An - Phó cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương). Ảnh: Tô Thế
Bà Bùi Thị Thanh An - Phó cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương). Ảnh: Tô Thế

Theo bà Bùi Thị Thanh An, bên cạnh việc đầu tư công nghệ, các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU nên mời các tổ chức chuyên môn đánh giá chất lượng sản phẩm của mình, cung cấp các chứng nhận mà thị trường EU ưa thích như chứng chỉ về sản phẩm hữu cơ, thương mại công bằng, sản phẩm bền vững….

Để đẩy mạnh xúc tiến thương mại trên môi trường số, bà Bùi Thị Thanh An cho rằng, gần đây, Bộ Công Thương đã triển khai các hình thức xúc tiến thương mại mới trên môi trường số để thay thế các hình thức xúc tiến thương mại truyền thống như: Tổ chức các hoạt động kết nối giao thương trực tuyến trên các ứng dụng internet (webinar) giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác có nhu cầu nhập khẩu và giữa các doanh nghiệp với các tổ chức hỗ trợ kinh doanh; xây dựng hệ sinh thái xúc tiến thương mại ứng dụng công nghệ thông tin; tuyên truyền quảng bá ngành hàng xuất khẩu...

Từ đầu năm 2020 đến nay, Cục Xúc tiến Thương mại đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan xúc tiến thương mại nước ngoài tổ chức hơn 30 hội nghị quốc tế trực tuyến và nhiều phiên giao thương trực tuyến giữa doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác tại thị trường EU; đồng thời hướng dẫn các địa phương, hiệp hội và trực tiếp hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tham gia các triển lãm, hội chợ trực tuyến ở trong nước và quốc tế.

Theo thống kê sơ bộ, hàng trăm nghìn lượt doanh nghiệp VN và EU đã được hỗ trợ kết nối giao thương trực tuyến thông qua hình thức này. Trong đó, có các hội nghị kết nối chuyên đề quan trọng trong các lĩnh vực như: Dệt may, da giày, rau quả, đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ.

Các mặt hàng tham gia giao thương đa dạng phục vụ nhu cầu xuất khẩu (sản phẩm phòng dịch, nông sản, thực phẩm, sản phẩm tiêu dùng, trang trí nội ngoại thất và vật liệu xây dựng, giày dép, sản phẩm thể thao...) cũng như nhu cầu nhập khẩu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước.

Theo bà Bùi Thị Thanh An, các hoạt động xúc tiến thương mại trực tuyến đã giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí kết nối giao thương, duy trì quan hệ khách hàng với các đối tác nước ngoài đồng thời tiếp xúc với khách hàng mới trong hoàn cảnh không thể thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại trên thực tế ở nước ngoài; không chỉ tiến tới đàm phán đơn hàng xuất khẩu mà còn tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại trực tiếp ngay sau khi dịch bệnh được đẩy lùi.

Bên cạnh đó, Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại cũng đã phê duyệt bổ sung các đề án tuyên truyền, quảng bá cho ngành cá Tra, chè, càphê; tăng cường cung cấp thông tin về thị trường, ngành hàng tại EU, các quy định liên quan trong hiệp định EVFTA để doanh nghiệp ngành nông sản nắm bắt và chuẩn bị các nguồn lực cần thiết cho việc tiếp cận thị trường EU.

Hình thành chuỗi giá trị đạt chuẩn xuất khẩu sang thị trường EU

Theo TS Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV & Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia, trên cơ sở định hướng khuyến khích của Chính phủ, cả nước đã và đang tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

Các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến được hình thành, ứng dụng khoa học và công nghệ sau thu hoạch tạo ra giá trị mới cho nông sản; các tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao giúp sản phẩm tươi, an toàn, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng.

TS Cấn Văn Lực - Kinh tế trưởng BIDV & Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia
TS Cấn Văn Lực - Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV & Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia. Ảnh: Tô Thế

TS Cấn Văn Lực dẫn số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đến hết tháng 5.2020, cả nước đã có 46 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; 9 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được công nhận (tập trung, ứng dụng công nghệ cao để sản xuất một hoặc một số sản phẩm nông sản hàng hóa có lợi thế vùng); 3 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được Chính phủ thành lập là Phú Yên, Bạc Liêu và Hậu Giang.

Ngoài các khu, vùng nông nghiệp công nghệ cao nêu trên, theo TS Lực thời gian vừa qua đã xuất hiện nhiều mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất như mô hình trồng rau khí canh, trồng rau thủy canh, trồng rau trong nhà lưới, nhà kính; mô hình trồng hoa trong nhà kính; mô hình nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính; mô hình chăn nuôi lợn ứng dụng nền đệm lót sinh học, công nghệ sinh học nhân giống in vitro…

Bên cạnh đầu tư của Nhà nước và doanh nghiệp nhỏ, hộ gia đình; nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đã tăng cường rót vốn vào nông nghiệp Công nghệ cao như Vinamilk, TH Truemilk, Dabaco, Masan, Lavifood, Ba Huân,...

Đáng lưu ý, năm 2019 đã có 17 dự án với mức đầu tư trên 20.000 tỉ đồng vào khâu chế biến, bảo quản nông sản được khởi công, khánh thành, đi vào hoạt động. Dù đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Tuy nhiên, ông Cấn Văn Lực cho hay, việc phát triển, ứng dụng công nghệ cao vào lĩnh vực nông nghiệp cũng còn nhiều hạn chế, tồn tại, như chính sách ứng dụng công nghệ cao chưa được cụ thể hóa và chưa được nhất quán thực hiện, nên chưa thu hút được nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực này; mô hình về ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp cũng chưa rõ nét, đặc biệt trong sản xuất theo chuỗi còn nhỏ lẻ, phân bổ không đều, chủ yếu là nhận chuyển giao tiến bộ kỹ thuật từ các nước.

Đáng chú ý, con số 46 doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao được công nhận trong cả nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 0,6% số doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và 0,01% tổng số doanh nghiệp cả nước. Tỉ trọng vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp tại Việt Nam cũng luôn ở mức thấp, hiện chỉ chiếm khoảng 1% tổng vốn đầu tư. Điều này cho thấy mức độ đầu tư, phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam còn tương đối hạn chế.

Ngoài ra, liên kết, hợp tác giữa 6 nhà (nhà nông – Nhà nước – Nhà băng, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp và Nhà HTX/Hiệp hội) trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ còn thiếu chặt chẽ, bền vững; các cam kết bao tiêu sản phẩm đầu ra chưa được thực hiện nghiêm túc, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hóa tạo khó khăn cho ngân hàng khi thu hồi vốn vay. Chưa chú trọng sản xuất theo chuỗi giá trị, khâu chế biến, bảo quản, tiếp thị, nên giá trị gia tăng thấp.

Để khắc phục những khó khăn, thách thức, đồng thời tạo đòn bẩy giúp nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, ông Cấn Văn Lực cho hay, cần có một Nghị quyết mới của Đảng về phát triển tam nông. Chính phủ tiếp tục đạo các bộ, ngành có liên quan xây dựng và hoàn thiện hệ thống các kênh thông tin dự báo về thị trường, giá cả nông sản nhằm giúp nông dân và doanh nghiệp có định hướng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ổn định.

Xây dựng kế hoạch và chiến lược tiếp thị và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản và tập trung xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cho các mặt hàng nông sản tiềm năng để xây dựng những thương hiệu mạnh, cạnh tranh được trên thị trường thế giới và gia tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu.

Xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao bài bản, được tổ chức và phát triển hợp lý; trình độ chế biến chuyên sâu, hiệu quả và phương án trả nợ vay khả thi nhằm giảm áp lực trong quản lý rủi ro cho các tổ chức tín dụng.

Về phía các tổ chức tín dụng, theo ông Lực, cần xây dựng, đổi mới chính sách và qui trình cấp tín dụng nông nghiệp – nông thôn đối với từng phân khúc khách hàng (đảm bảo đúng qui định nhưng đơn giản hóa thủ tục, dễ hiểu. Thiết kế các sản phẩm đặc thù, nhất là tài trợ chuỗi cung ứng/chuỗi giá trị. Cơ cấu lại màng lưới, kênh phân phối hoạt động…

Về phía doanh nghiệp nông nghiệp nói chung và nông nghiệp công nghệ cao nói riêng: Cần chủ động tiếp cận đánh giá nhu cầu thị trường, nâng cao trình độ quản lý, năng lực sản xuất, lành mạnh hóa tình hình tài chính và xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, hiệu quả để tăng khả năng cạnh tranh, chống chịu.

Xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao bài bản, hiệu quả cùng phương án trả nợ vay khả thi nhằm giảm áp lực trong quản lý rủi ro cho các tổ chức tín dụng; Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt chuyển giao công nghệ cao, nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, nông nghiệp sinh thái...; Có chiến lược tiếp thị và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, tập trung xây dựng thương hiệu, tận dụng FTA thế hệ mới, nhất là EVFTA.

Cần tạo liên kết nông dân - doanh nghiệp - ngân hàng

Để tận dụng cơ hội mà EVFTA mang đến, ông Nguyễn Đình Tùng - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Vina T&T Group – cho rằng, trong chuỗi liên kết, ngoài mối liên hệ giữa nông dân - doanh nghiệp, còn một yếu tố rất quan trọng, đó là nguồn vốn.

Theo ông Tùng, các hộ nông dân cần vốn để đầu tư, phát triển cho vùng trồng của họ, tuy nhiên để tiếp cận được nguồn vốn không phải là điều dễ dàng. Nhờ việc ngân hàng tham gia vào chuỗi liên kết, nông dân sẽ được tạo điều kiện thuận tiện hơn. Ví dụ điển hình là các ngân hàng ở Bến Tre đã tham gia vào chuỗi liên kết.

Ông Nguyễn Đình Tùng - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Vina T&T Group phát biểu. Ảnh: Tô Thế
Ông Nguyễn Đình Tùng - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Vina T&T Group phát biểu. Ảnh: Tô Thế

Ông Tùng cho biết, chỉ cần phương án kinh doanh của doanh nghiệp tốt, ngân hàng sẽ cho nông dân ở vùng trồng đó vay vốn. Ngân hàng sẽ bám vườn, bằng cách nào đó họ sẽ khiến toàn bộ hàng của nông dân bán cho doanh nghiệp, doanh nghiệp trả tiền cho nông dân và nông dân trả lại cho ngân hàng. Muốn sản lượng được đảm bảo về lâu về dài, giữa nông dân – doanh nghiệp – ngân hàng cần duy trì được mối liên kết.

Cũng theo ông Tùng, trong chuỗi liên kết này, đội ngũ kỹ thuật của doanh nghiệp được gửi đi thực tế tại các vùng trồng liên kết nhằm mục đích đánh giá chất lượng vùng trồng và tổ chức các buổi huấn luyện định kì nâng cao kiến thức về kỹ thuật nông nghiệp tới các hộ nông dân.

Việc này sẽ đảm bảo được các hộ nông dân trong chuỗi liên kết sẽ tiếp nhận và áp dụng các kiến thức được truyền đạt vào quy trình trồng, thu hoạch thực tế theo đúng kỹ thuật và các yêu cầu chất lượng nghiêm ngặt. Ngoài hỗ trợ về kỹ thuật, doanh nghiệp sẽ tham gia và cam kết bao tiêu sản phẩm cho người nông dân.

“Qua việc ký hợp đồng với hợp tác xã để bao tiêu sản phẩm và cung cấp phương án kinh doanh rõ ràng, hiệu quả, ngân hàng sẽ có đủ cơ sở để cấp vốn cho hộ nông dân”, ông Nguyễn Đình Tùng chia sẻ.

Xây dựng bộ tiêu chí về cho vay chuỗi giá trị nông sản chủ yếu của Việt Nam

Tại hội thảo, chuyên gia kinh tế Phạm Xuân Hoè cho biết, việc tổ chức sản xuất, cung ứng hàng hóa theo chuỗi giá trị, đồng thời ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hàng hóa bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu là một giải pháp có tính chiến lược. Trong đó, doanh nghiệp và HTX đóng vai trò nòng cốt, phải được đặt đúng vị thế của họ trong toàn chuỗi giá trị.

Theo ông Hoè, chuỗi giá trị có 3 trụ cột chính: Thứ nhất, gồm doanh nghiệp chủ chuỗi, các doanh nghiệp, HTX, nông dân trong toàn chuỗi sản xuất và cung ứng sản phẩm, đây cũng là trụ cột xương sống của toàn chuỗi trong 3 trụ cột của quá trình triển khai cho vay theo chuỗi giá trị.

Trụ cột 2 là các định chế tài chính (ĐCTC) và sản phẩm dịch vụ tài chính cung ứng cho toàn chuỗi giá trị.

Ở trụ cột 3: gồm các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu, tổ chức xã hội nghề nghiệp- là người cung ứng dịch vụ công/dịch vụ hỗ trợ.

Chuyên gia kinh tế Phạm Xuân Hoè. Ảnh: Tô Thế
Chuyên gia kinh tế Phạm Xuân Hoè. Ảnh: Tô Thế

Vị chuyên gia cũng dành thời gian phân tích về những hạn chế trong hình thành kết nối chuỗi giá trị cũng như cho vay theo chuỗi giá trị nông sản chủ yếu của Việt Nam.

Theo đó, hiện nay, Việt Nam chưa có chuỗi giá trị nào về nông sản được hình thành đầy đủ theo đúng nghĩa của thông lệ quốc tế đã định nghĩa.

Điều này được thể hiện rất rõ về những hạn chế trong việc hình thành chuỗi giá trị nông sản, cũng như triển khai cho vay theo chuỗi giá trị của các ngân hàng, thể hiện như sau: Tính liên kết còn lỏng lẻo giữa các chủ thể trong chuỗi và các định chế tài chính đầu tư, cho vay;

Văn hóa làm ăn theo hợp đồng và cam kết tuân thủ Hợp đồng kinh tế của các chủ thể trong chuỗi còn yếu (nhất là nông dân); tuân thủ quy trình sản xuất chất lượng chưa tốt;

Vốn tự có của thành viên trong chuỗi nhỏ, chủ yếu dựa vào đi vay nên chi phí tài chính cao, những khoản nợ tồn đọng của nông dân vùng nuôi trồng thủy sản hoặc cây đặc sản chưa được xử lý dứt điểm, nợ khoanh treo ngoại bảng, không được vay mới, trong khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngân hàng đang giữ;

Về kiến nghị, theo ông Hoè, Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn rà soát tổng thể lại chính sách cho vay theo chuỗi giá trị nông sản và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp để đồng bộ hóa một gói chính sách, nhằm thúc đẩy hình thành chuỗi giá trị nông sản và cho vay theo chuỗi giá trị nông sản.

“Trong đó chúng tôi đề nghị xây dựng một Nghị định riêng về cho vay theo chuỗi giá trị đối với nông sản chủ yếu của Việt Nam;

Xây dựng khung pháp lý về hợp đồng kinh tế dân sự có chế tài xử lý cụ thể với chủ thể tham gia trong chuỗi khi vi phạm hợp đồng cam kết;

Xây dựng bộ quy tắc ứng xử (mẫu): các nguyên tắc thỏa thuận, ràng buộc; nghĩa vụ, trách nhiệm, khai trừ ra khỏi chuỗi… của các thành viên trong chuỗi giá trị của con tôm/cá tra/lúa gạo/rau quả theo văn bản mẫu, sau khi thành viên trong chuỗi thảo luận có thể điều chỉnh theo văn hóa vùng miền. Mọi thành viên tham gia phải đọc hiểu ký cam kết thực hiện;

Chế định cụ thể vai trò hiệp hội ngành hàng, bảo vệ lợi ích hợp pháp cũng như phân xử những xung đột lợi ích của các thành viên trong chuỗi giá trị”- ông Hòe kiến nghị.

Agribank sẵn sàng hỗ trợ, giảm phí tối đa cho vay nông nghiệp công nghệ cao

Phát biểu tại hội thảo, ông Phạm Toàn Vượng - Phó Tổng Giám đốc Agribank - cho biết, từ tháng 11.2016, khi Thủ tướng phát động đẩy mạnh cho vay nông nghiệp công nghệ cao, Agribank đã dành 50 ngàn tỉ cho chương trình này. Trong đó, Agribank đã hạ lãi suất từ 0,5 đến 1,5%, giảm phí tối đa cho vay nông nghiệp công nghệ cao.

Đến ngày 31.10, ngân hàng đã giải ngân gần 30 ngàn tỉ đồng. Theo ông Phạm Toàn Vượng, thời gian qua, Agribank liên tục thực hiện các giải pháp nhằm tiết giảm chi phí cho vay và tạo mọi điều kiện để khách hàng tiếp cận khoản vay dễ dàng nhất.

Ông Phạm Toàn Vượng - Phó Tổng Giám đốc Agribank phát biểu. Ảnh: Tô Thế
Ông Phạm Toàn Vượng - Phó Tổng Giám đốc Agribank phát biểu. Ảnh: Tô Thế

“Vừa rồi, để hạn chế tín dụng đen, Agribank cũng đã triển khai đề án thấu chi qua thẻ với định mức đến 30 triệu cho bà con nông dân. Người nông dân lúc nào cũng có thể dùng tiền mua giống, phân bón, vật tư... mà không phải đến ngân hàng nhận nợ. Khi trả nợ thì có thể thanh toán qua app điện thoại” - Phó Tổng Giám đốc Agribank chia sẻ.

Ngoài ra, Agribank cũng phát triển nhiều phương pháp cho vay để tăng đối tượng tiếp cận như triển khai ngân hàng lưu động xuống tới tận cấp xã để khách hàng không phải đi lại nhiều, tiết giảm chi phí.

Liên quan đến việc liên kết giữa nông dân và ngân hàng, ông Phạm Toàn Vượng cho biết, Agribank cũng tổ chức sinh hoạt cho các tổ vay vốn, phổ biến kỹ thuật cho bà con.

“Cho vay theo chuỗi, cho vay xuất khẩu càng được ưu tiên. Ngân hàng sẵn sàng tiếp cận, hạ lãi suất, nhiều hơn quy định của Ngân hàng Nhà nước”, ông Phạm Toàn Vượng nói.

“Chấp nhận cuộc chơi lớn thì phải làm ăn lớn”

Trước những đề xuất, kiến nghị của các chuyên gia tại hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú khẳng định rằng: Hội thảo “Hiệp định EVFTA - Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU” là chủ đề rất thời sự, bởi Hiệp định EVFTA mới thực thi vào đầu tháng 8. Ngay sau đó, chúng ta đã được thừa hưởng thành tựu từ Hiệp định này mang lại, nhất là vấn đề xuất khẩu lúa gạo, nhất là sang thị trường khó tính như EU.

“Đối với doanh nghiệp Việt, muốn xuất khẩu được thì phải đi từ khâu sản xuất, chế biến, phải làm tốt được hai khâu này thì chúng ta mới tận dụng được cơ hội từ Hiệp định EVFTA. Muốn xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU, chúng ta phải chấp nhận cuộc chơi là có sản phẩm chất lượng tốt, ứng dụng khoa học công nghệ cao.

Muốn làm được điều đó thì doanh nghiệp Việt phải “làm ăn lớn” và muốn “làm ăn lớn” thì phải có “nguồn vốn lớn”, “đầu tư lớn”. Nhận thức được điều này, ngành ngân hàng luôn hỗ trợ tối đa cho nông dân, doanh nghiệp.

Về phía doanh nghiệp cũng cần phải có sự quyết tâm cao, phải rất tích cực để hoàn thành được các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, để hoàn thành được các mục tiêu, không nên nôn nóng, đốt cháy giai đoạn mà phải thực hiện từng bước một, thật chắc chắn”.

Phát biểu bế mạc hội thảo, Tổng Biên tập Báo Lao Động Nguyễn Ngọc Hiển gửi lời cảm ơn tới Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Agribank đã đồng hành cùng chương trình hội thảo; đồng thời cũng nhấn mạnh: Trong suốt 3 tiếng vừa qua, chúng ta đã cùng lắng nghe những thông tin từ đại diện lãnh đạo các cơ quan quản lý hoạch định chính sách là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương. Chúng ta cũng đã nghe những kiến nghị, đề xuất giải pháp từ các chuyên gia, những câu hỏi từ phía nông dân, doanh nghiệp cũng đã được đại diện bộ, ngành ghi nhận và tiếp thu. Đặc biệt là câu trả lời cho các giải pháp nhằm tăng nguồn lực tài chính, hỗ trợ và khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng cho nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất nông, thủy sản đáp ứng đòi hỏi của thị trường xuất khẩu sáng EU, tranh thủ cơ hội từ Hiệp định EVFTA.

----

Hội thảo được chủ trì bởi Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú, Tổng Biên tập Báo Lao Động Nguyễn Ngọc Hiển và Tổng Giám đốc Agribank Tiết Văn Thành.

Tham dự Hội thảo có lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương), Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank), cùng các chuyên gia nông nghiệp, ngân hàng, đông đảo các doanh nghiệp xuất khẩu nông thủy sản và bà con nông dân… nhằm hướng tới chỉ rõ địa chỉ cung cấp vốn hiệu quả cho nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu, xác định rõ vướng mắc, giải pháp khắc phục, đề xuất các chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn nữa giúp doanh nghiệp xuất khẩu cùng người nông dân tiến nhanh và bền vững vào thị trường Châu Âu.

Báo Lao Động phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức chương trình hội thảo “Hiệp định EVFTA - Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU”.
Báo Lao Động phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức chương trình hội thảo “Hiệp định EVFTA - Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU”.

Trước thềm Hội thảo, trao đổi với Lao Động, ông Nguyễn Đình Tùng – Chủ tịch HĐQT, TGĐ Vina T&T cho biết, sau 2 tháng Hiệp định EVFTA có hiệu lực, một số doanh nghiệp đã được hưởng những lợi ích đầu tiên.

Tuy nhiên, với nhiều doanh nghiệp, Hiệp định này vẫn còn khá mới mẻ. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là để chuẩn bị, tận dụng các cam kết một cách phù hợp, các doanh nghiệp cần có hiểu biết chính xác, đầy đủ về các cam kết trong EVFTA liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.

Chính vì vậy, Hội thảo "Hiệp định EVFTA - Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU” sẽ là cầu nối, là nơi chia sẻ kinh nghiệm, giúp nông dân, doanh nghiệp tận dụng tối đa cơ hội để "thẳng tiến" vào thị trường EU.

Đặc biệt, nhờ việc ngân hàng tham gia vào chuỗi liên kết, nông dân và doanh nghiệp sẽ có điều kiện nâng cao năng lực sản xuất, chế biến, xuất khẩu để tiếp cận thị trường EU thuận lợi hơn. Chỉ cần phương án kinh doanh của doanh nghiệp tốt, ngân hàng sẽ cho nông dân ở vùng trồng đó vay vốn. Muốn sản lượng được đảm bảo về lâu về dài, giữa nông dân - doanh nghiệp - ngân hàng cần duy trì được mối liên kết.

Hội thảo “Hiệp định EVFTA - Vai trò của ngân hàng trong hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu vào thị trường EU” được phát trực tuyến trên laodong.vn và Fanpage chính thức của Báo Lao Động bắt đầu từ 8h sáng nay 20.11.2020.

Nhóm PV
TIN LIÊN QUAN

Doanh nghiệp chắt chiu từng đơn hàng

Bảo Hân - ANH THƯ - Hà Anh |

Để duy trì hoạt động sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho NLĐ, nhiều doanh nghiệp đã tìm các thị trường mới, thay đổi mặt hàng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của xã hội… qua đó việc làm, thu nhập của NLĐ vẫn ổn định trong thời gian qua.

Thị trường lao động khởi sắc, doanh nghiệp tăng tốc dịp cuối năm

Nam Dương |

Nhiều doanh nghiệp tại TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương bắt đầu gia tăng sản xuất trở lại do đơn hàng nhiều. Doanh nghiệp dự tính sẽ thưởng Tết cho người lao động bằng năm 2019 hoặc có thưởng lương tháng 13.

Doanh nghiệp Việt xuất khẩu lô camera an ninh trí tuệ nhân tạo sang Mỹ

Thế Lâm |

Tin từ Công ty Bkav ngày 17.11, lô hàng camera an ninh AI View đầu tiên do doanh nghiệp này phát triển và sản xuất đã được xuất sang thị trường Mỹ.

Nhìn lại diễn biến vụ bé trai rơi xuống trụ bê tông ở Đồng Tháp

Bảo Bình - Dương Anh |

Liên quan vụ bé trai rơi xuống trụ bê tông ở Đồng Tháp, sau hơn nửa tháng tìm kiếm, lực lượng cứu hộ đã đưa được đoạn cọc thứ nhất (dài 12m) trong số 3 đoạn của cọc bêtông lên mặt đất và đang tiến hành các bước cứu hộ tiếp theo.

Khoảnh khắc AFF Cup: Khép lại hành trình của ông Park Hang-seo

NHÓM PV |

Bản tin Khoảnh khắc AFF Cup ngày 17.1. AFF Cup 2022 kết thúc, khép lại hành trình của huấn luyện viên Park Hang-seo với bóng đá Việt Nam.

Rung lắc thượng tầng tại Eximbank: Thập kỷ rối ren chưa kết thúc

Đức Mạnh |

Cơ cấu thượng tầng tại Ngân hàng Eximbank đã có nhiều biến động mạnh. Cổ đông ngoại gắn bó 16 năm đã chuyển nhà, thế chân bởi nhân tố bí ẩn liên quan đến Tập đoàn Bamboo Capital.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có nhiều giải pháp hỗ trợ người lao động mất việc

PHƯƠNG NGÂN - CHÂN PHÚC |

TPHCM - Tại LĐLĐ quận Bình Thạnh, sáng ngày 17.1, ông Trần Thanh Hải - Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam đã đến thăm, động viên và trao quà Tết cho người lao động có hoàn cảnh khó khăn đang làm việc trên địa bàn. Đồng thời, ông Trần Thanh Hải cũng đã thông tin một số giải pháp nhằm hỗ trợ người lao động bị mất việc, giảm việc.

Hà Nội: Sau chấn chỉnh, loạt lô cốt vẫn án ngữ trên đường Vũ Trọng Khánh

PHẠM ĐÔNG |

9 chiếc lô cốt đang án ngữ trên đường Vũ Trọng Khánh khiến giao thông đông đúc, quá tải dù đã cận kề Tết Nguyên đán Quý Mão. Sở Giao thông vận tải (GTVT) Hà Nội lại yêu cầu chấn chỉnh tình trạng thi công hệ thống xử lý nước thải Yên Xá gây ùn tắc.

Doanh nghiệp chắt chiu từng đơn hàng

Bảo Hân - ANH THƯ - Hà Anh |

Để duy trì hoạt động sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho NLĐ, nhiều doanh nghiệp đã tìm các thị trường mới, thay đổi mặt hàng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của xã hội… qua đó việc làm, thu nhập của NLĐ vẫn ổn định trong thời gian qua.

Thị trường lao động khởi sắc, doanh nghiệp tăng tốc dịp cuối năm

Nam Dương |

Nhiều doanh nghiệp tại TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương bắt đầu gia tăng sản xuất trở lại do đơn hàng nhiều. Doanh nghiệp dự tính sẽ thưởng Tết cho người lao động bằng năm 2019 hoặc có thưởng lương tháng 13.

Doanh nghiệp Việt xuất khẩu lô camera an ninh trí tuệ nhân tạo sang Mỹ

Thế Lâm |

Tin từ Công ty Bkav ngày 17.11, lô hàng camera an ninh AI View đầu tiên do doanh nghiệp này phát triển và sản xuất đã được xuất sang thị trường Mỹ.