Giảm dần khai thác than
Cổng thông tin điện tử Chính phủ ngày 18.1 cho hay, về mục tiêu, chiến lược định hướng phấn đấu hoàn thành cơ bản công tác thăm dò đến đáy tầng than Bể than Đông Bắc, hoàn thành công tác thăm dò đến đáy tầng than Bể than An Châu nhằm xác minh và nâng cấp trữ lượng than đảm bảo đủ độ tin cậy theo quy định để huy động vào thiết kế khai thác.
Phấn đấu sản lượng than thương phẩm khai thác (không bao gồm than bùn) giai đoạn đến năm 2030 đạt khoảng 45 - 50 triệu tấn/năm và giảm dần trong giai đoạn 2031 - 2045 (đạt khoảng 38 -40 triệu tấn vào năm 2045). Phấn đấu đưa vào vận hành khai thác thử nghiệm tại Bể than sông Hồng trước năm 2040 để tiến tới khai thác quy mô công nghiệp trước năm 2050 (nếu thử nghiệm thành công).
Về thị trường, hình thành thị trường than với nhiều người bán và nhiều người mua, đa dạng hóa nguồn than (than sản xuất trong nước, pha trộn, nhập khẩu...) và đầu mối cung cấp than cho các hộ tiêu thụ trong giai đoạn đến năm 2030; phấn đấu vận hành thị trường than cạnh tranh đầy đủ tại các phân khúc thị trường than sau năm 2030.
Hoàn thành việc nghiên cứu, thí điểm áp dụng chỉ số giá than quốc tế phù hợp cho tham chiếu giá than nhập khẩu phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam theo lộ trình phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Để giá than minh bạch do thị trường quyết định
Một nhiệm vụ quan trọng được đặt ra trong chiến lược là hoàn thiện khung pháp lý đối với lĩnh vực công nghiệp than phù hợp với các giai đoạn phát triển của thị trường năng lượng theo hướng thúc đẩy khai thác, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên than; đồng thời, đảm bảo tính thống nhất giữa các quy định liên quan, phù hợp với điều kiện thực tế, thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của đất nước trong tương lai.
Rà soát, bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện các chính sách về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng; quản lý, bảo vệ và phát triển rừng... để bảo đảm phát triển các dự án ngành than đáp ứng mục tiêu của Chiến lược.
Tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch; tiến tới xóa bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá than minh bạch do thị trường quyết định. Ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia đầu tư thăm dò và khai thác than ở nước ngoài.
Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và sử dụng than rà soát, hoàn thiện các quy định về dự trữ than, bảo đảm đáp ứng yêu cầu than cho các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất điện; trong đó có tính đến dự phòng để ứng phó với những trường hợp rủi ro trong việc nhập khẩu than, biến động cực đoan của thời tiết.
Cơ cấu lại toàn diện các doanh nghiệp nhà nước
Đáng chú ý, Chiến lược phát triển ngành công nghiệp than Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng định hướng tập trung hoá sản xuất thông qua liên thông, sáp nhập, hợp nhất các mỏ, doanh nghiệp sản xuất than để tạo ra các mỏ có quy mô sản lượng lớn.
Cơ cấu lại toàn diện các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp than theo hướng tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi, có thế mạnh. Tái cơ cấu triệt để các dự án, doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả.
Về tài chính và đầu tư, chiến lược chú trọng ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác điều tra, tìm kiếm cơ bản nguồn tài nguyên than trong nước từ nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn ưu đãi.
Từng bước tăng khả năng huy động tài chính nội bộ trong các doanh nghiệp ngành than thông qua việc nâng cao hiệu quả, hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp, bảo đảm có tích lũy và tiến tới nguồn huy động vốn chính cho các dự án đầu tư từ vốn tự tích lũy của doanh nghiệp.