Chỉ có ở vùng núi
Bạc hà núi cũng là loại cây thảo, sống lâu năm, cao 30 – 50 cm. Thân mọc đứng, có lông, phần gốc hóa gỗ. Lá mọc đối, hình trái xoan, gốc thuôn vát, đầu tù hơi nhọn, mép khía răng, mặt trên màu lục sẫm, có lông mềm, mặt dưới có lông màu trắng nhạt; cuống lá cũng có lông.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùy, có lông; hoa nhỏ, màu lam nhạt hay tía, thơm; đài có ống ngắn, có lông, 5 răng hình mác nhọn; tràng có 2 môi, mặt trong và mặt ngoài có lông, môi dưới có tua nhỏ; nhị 4 đính ở họng, dài và thò ra ngoài tràng; bầu 4 ô, có lông.
Bạc hà núi phân bố rải rác từ Nhật Bản, Trung Quốc đến Bắc Việt Nam. Ở Việt Nam, cây phân bố nhiều ở các tỉnh vùng núi sát với biên giới Trung Quốc như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng… và ít hơn Hải Dương, Bắc Giang…
Bạc hà núi là loại cây ưa sáng, ưa ẩm và có thể hơi chụi bóng, thường mọc ở ven rừng núi đá vôi hay trên các nương rẫy và ruộng cao đã bỏ hoang.
Cây sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm (xuân hè), đến cuối mùa hè thì ra hoa, khi quả già tự mở để hạt thoát ra ngoài. Cây con mọc từ hạt được thấy vào giữa mùa xuân.
Những bài thuốc từ bạc hà núi
Theo Lương y Thích Tuệ Tâm, Giám đốc Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa (Huế), bạc hà núi được dùng chữa cảm phong hàn, nghẹt mũi, ho gà, viêm phế quản mạn tính, phong thấp, đau lung, nhức xương, đòn ngã tổn thương, viêm dạ dày ruột, viêm thận, bể thận, đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều... với liều dùng hàng ngày 15 – 30 g, sắc hoặc ngâm rượu uống.
Hoặc dùng ngoài bằng cách lấy cây tươi giã đắp hoặc nấu nước chữa tri mụn nhọt, viêm mủ da, eczema, ngứa, lở sơn, vết thương chảy máu...
Dùng chữa phong thấp, đau mỏi, tê bại, bầm tím, ứ máu: Bạc hà núi và huyết giác lượng bằng nhau, ngâm rượu, ngày uống 30 ml.
Dùng chữa viêm dạ dày, ruột: Bạc hà núi 30g, địa du 15g, sắc uống, dùng 10 ngày liên tục.