Đây là những container phế liệu bị Trung Quốc dừng nhập khẩu, vì thế bị đẩy về các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, trở thành bãi chứa rác thải.
Song vấn đề cảng Cát Lái phải đối mặt lúc này không chỉ là tình trạng tồn đọng khoảng 8.000 container phế liệu trong ngắn hạn, mà khả năng doanh nghiệp nhập khẩu “bỏ của chạy lấy người” là rất cao. Cảng trở nên chật chội vì phế liệu gây khó khăn cho việc lưu bãi và thông quan các loại hàng hóa khác.
Để giải tỏa khoảng 8.000 container phế liệu, chi phí vận chuyển, thuê bãi và lưu kho, thậm chí có những thứ phải tiêu hủy, là rất lớn. Các hãng tàu, doanh nghiệp nhập khẩu… khó kham nổi chi phí này vì thế “đánh bài chuồn” và bỏ mặc là thượng sách.
Với khoảng 8.000 container phế liệu tồn đọng, cảng Cát Lái vô hình chung trở thành cảng chứa rác thải, thế nhưng đến nay vẫn chưa có giải pháp xử lí, trong khi các doanh nghiệp nhập khẩu thì đang muốn “tàng hình” nhằm phủi bỏ trách nhiệm cả về mặt chi phí lẫn môi trường.
Có thể thấy rằng, qua con số khoảng 8.000 container phế liệu đang tồn ở cảng Cát Lái cũng cho thấy, cách xử lí chưa đủ mạnh mẽ của phía cảng và các cơ quan chức năng tại đây. Cơ quan chức năng và phía các cảng không chỉ cần dừng cấp giấy phép nhập khẩu và tiếp nhận phế liệu, mà phải khẩn trương ra quyết định khám xét để xem thực hư trong các container phế liệu gồm những gì, có chứa các loại hàng hóa, sản phẩm vi phạm, bị cấm nhập hay không để có hướng xử lí. Không thể cứ chần chừ chờ đợi sự trách nhiệm từ phía doanh nghiệp nhập khẩu đối với các container phế liệu mà họ đã đưa về cảng.
Dưới góc độ pháp lí, 8.000 container phế liệu kia đang như một sự thách thức đối với việc xử lí của các cơ quan hữu quan. Cần biết rằng, đây không phải là lần đầu hàng nghìn container phế liệu bị tồn đọng tại các cảng Việt Nam còn doanh nghiệp nhập khẩu thì biến mất. Tình trạng này từng xảy ra tại cảng Hải Phòng mấy năm trước, và thỉnh thoảng lại được chuyển dịch địa điểm sang một số cảng khác như một chiêu thức tránh gây chú ý.