Khó khăn trong thương lượng và chính sách
Tổ chức công đoàn có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong việc cải thiện điều kiện làm việc an toàn vệ sinh, xây dựng văn hoá an toàn lao động tại nơi làm việc. Đồng thời, chủ động phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Qua đó góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, hiện nay, tổ chức công đoàn còn gặp khó khăn khi thương lượng với người sử dụng lao động trong việc ký kết các thoả thuận có lợi cho người lao động.
Bà Nguyễn Thị Bích Liên - Phó Ban Chính sách pháp luật LĐLĐ tỉnh Bắc Ninh chia sẻ: "Trước đây, mạng lưới an toàn vệ sinh viên có chế độ phụ cấp. Còn hiện nay, đối tượng này có được hưởng phụ cấp hay không thì phụ thuộc vào sự thương lượng giữa tổ chức công đoàn cơ sở với người sử dụng lao động. Vì vậy, có một số doanh nghiệp trước đây đang trả phụ cấp cho đối tượng an toàn vệ sinh viên, nhưng từ khi Luật An toàn vệ sinh ra đời thì họ nói vấn đề này là thoả thuận. Do đó, nếu công đoàn không thoả thuận hoặc thoả thuận không thành thì rất khó để đảm bảo quyền lợi cho người lao động".
Bà Liên lấy ví dụ thực tế, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện có nhiều tổ chức doanh nghiệp hoạt động. Một số doanh nghiệp có đề cập đối thoại về vấn đề môi trường. Song khi nhắc tới chuyện thương lượng để ký kết thoả ước những điều khoản liên quan đến điều kiện lao động thì đa số đều bỏ ngỏ.
"Người sử dụng lý giải, họ đã cố gắng làm theo các quy định tiêu chuẩn, kinh phí đã khá lớn, giờ không thể thương lượng hơn được nữa" - bà Liên cho biết.
Còn theo ông Trần Xuân Trường - Phó Ban Tuyên giáo - Chính sách pháp luật Công đoàn Đường sắt Việt Nam, ngoài khó khăn nêu trên thì còn rất nhiều vướng mắc khác.
Một trong số nhiều vướng mắc được ông Trường đưa ra là quan đến vấn đề an toàn vệ sinh lao động, hiện nay người lao động nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày trở lên hoặc tạm hoãn hợp đồng lao động không được tham gia bảo hiểm y tế toàn dân. Nếu muốn mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình cũng rất khó thực hiện. Vì vậy, trong thời gian này, người lao động mất quyền lợi về bảo hiểm y tế toàn dân.
Chưa kể đến có nhiều vụ tai nạn dù doanh nghiệp xác định là tai nạn lao động. Nhưng không có biên bản điều tra tai nạn lao động của cấp có thẩm quyền (do vụ việc có tình tiết phức tạp phải kéo dài thời hạn điều tra) nên cơ quan y tế không chấp nhận việc giám định để xác định mức độ suy giảm sức khoẻ cho nạn nhân sau khi được điều trị xong. Vì vậy, vài năm sau, người lao động mới được đi giám định, kết quả không còn được khách quan.
Cần hành động từ việc nhỏ nhất
Theo ông Trần Xuân Trường - Phó Ban Tuyên giáo - Chính sách pháp luật Công đoàn Đường sắt Việt Nam, muốn đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, trước tiên, tổ chức công đoàn nên đi từ những việc làm nhỏ nhất. Ví như việc quan tâm đến đôi giày, đôi gang tay, bộ quần áo... của người lao động.
"Những người làm công tác an toàn vệ sinh viên cần làm tốt vấn đề này bằng việc nhắc nhở anh em sử dụng các trang thiết bị bảo hộ lao động để bảo đảm an toàn cho bản thân" - ông Trường nói.
Bên cạnh đó, cấp công đoàn cơ sở phải tham gia ngay từ đầu việc xây dựng kế hoạch ATVSLĐ của doanh nghiệp. Nếu hạng mục nào chưa có phải yêu cầu bổ sung ngay. Đồng thời, cần có những biện pháp tuyên truyền đến cả người sử dụng lao động và người lao động thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình trong vấn đề ATVSLĐ theo quy định của pháp luật.
Đặc biệt, theo ông Trường, tổ chức công đoàn cần thường xuyên nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật, so sánh với thực tiễn doanh nghiệp ngành nghề của mình để phát hiện những bất cập, không phù hợp. Từ đó kiến nghị lên Tổng LĐLĐ Việt Nam và các bộ ngành để có những điều chỉnh phù hợp.
Có cùng quan điểm, bà Nguyễn Thị Bích Liên - Phó Ban Chính sách pháp luật LĐLĐ tỉnh Bắc Ninh đề xuất thêm việc các đơn vị trung tâm huấn luyện cần nghiên cứu cụ thể xem từng doanh nghiệp họ sản xuất gì, chỉ ra cụ thể người lao động trong từng doanh nghiệp cần phải có biện pháp gì cụ thể; tránh rườm rà, mất thời gian và không thực tiễn.