Anh Tuấn thường đến nhà tôi chơi vào những buổi tối. Để tán chị tôi như bao trai làng. Anh muốn cưới vợ, để tu chí làm ăn, để dân làng tin rằng thằng đi tù về nay đã đổi khác. Nhưng đó là điều tôi nghĩ, cả làng không ai tin một gã đi tù, khi mà hai bên bắp tay anh Tuấn xăm mấy chữ xanh lè “hận đời”, “Giang hồ chi ngã ”.
Đã thế, lúc nào anh cũng nghêu ngao mấy bản nhạc chế, mãi sau này tôi mới biết đó là nhạc chế trong tù. Anh hát:
Nào ngờ em yêu ơi em bán thân cho Việt kiều nè
Em bán thân cho ngoại kiều
Để rồi đây tui ngậm đắng nuốt cay, tui lấy kim này tui đổ mực ra pha
Tui xăm vào trên trán rằng ba chữ “hận đàn bà”...
Đã đi tù lại hát như thế, ai mà dám gả con gái cho. Mặc dù từ ngày về làng, anh Tuấn không uống rượu, không hút thuốc, nói năng cũng có đầu đuôi thưa gửi. Không như mấy gã trai làng đến nhà tôi cười cười giả đò với mẹ mà mắt thì nhìn chị tôi trân trân.
Làng tôi năm đó nổi lên nạn trộm chó. Tối đến nghe tiếng xe máy rú ga là sáng mai có nhà báo mất chó. Không nhà nào biết chính xác ai trộm, quy hết cho đám thanh niên lang bạt kỳ hồ hay nhậu nhẹt, bài bạc. Và anh Tuấn cũng bị điểm vào danh sách này. Bởi vì “từ ngày thằng Tuấn về, làng mới xảy ra trộm chó” - người ta bảo thế đấy!
Tôi không tin, bởi cứ nghĩ đến hình ảnh anh Tuấn cười thật hiền, không hút xách, rượu chè, đề đóm thì không thể nào trộm cướp được. Nhưng tin lành đồn gần, tin dữ đồn xa, nhất là vết tù tội, bất luận tội gì cũng khiến người khinh bỉ, đề phòng anh Tuấn. Họ chọn cách lánh mặt, dè bỉu sau lưng.
Trước làng tôi là cánh đồng đầy những hố bom sâu hoắm. Lũ con nít chăn bò như chúng tôi luôn bị cấm bén mảng đến đó. Mấy ông bà già trong làng kể đó là nơi bộ đội hy sinh, sau này có thêm người chết đuối, thiêng lắm. Chúng tôi nghe rất sợ nhưng vì tò mò mà một lần kéo đến. Nhìn đám cỏ dại mọc xanh quanh hố bom thằng Đức phán “cạn lắm” rồi nhảy xuống, nó chới với, rồi nổi bong bóng lên. Chúng tôi hoảng hồn, la hét thất thanh.
Hôm đó, anh Tuấn làm cỏ ngô gần đó chạy đến, nhảy xuống, vớt thằng Đức lên. Ép tim, hô hấp. Một lúc sau người làng kéo đến, thằng Đức tỉnh dậy, anh Tuấn đã lẩn đi đâu mất.
Chị tôi không yêu anh Tuấn. Nhiều lần chị lánh mặt, bảo đã có người yêu, để mẹ ra tiếp. Vào một đêm mưa, anh Tuấn đến nhà, anh đi thẳng vào bếp gặp mẹ và chị. Tôi ngồi học, nhìn qua tấm phên nứa thấy mắt anh buồn hiu, anh bảo với mẹ: “Con phải đi vô Nam rồi mẹ ạ”.
Lần ấy anh Tuấn không hát nhạc chế như mọi bữa. Ra đến đầu ngõ anh hát mấy câu trong bài “Sao em vội lấy chồng”. Trong đêm vắng, tiếng hát ngân dài thê thiết:
Bướm vàng đã đậu cây mù u rồi
Lấy chồng sớm làm gì, để lời ru thêm buồn
Đó cũng là lần cuối tôi gặp anh Tuấn. Nghe nói anh vào Tây nguyên, làm công nhân cho một doanh nghiệp càphê. Nhiều người trong làng thở phào, giống như tan biến một ẩn họa. Chỉ có thằng Đức và tôi hay nhắc với nhau về anh Tuấn. Trong thâm tâm, chúng tôi vẫn thấy anh Tuấn thật hiền lành. Tôi nhớ anh như một người anh.