Anh kể, cơ quan vừa ra thông báo tuyển dụng nhân sự mấy ngày mà đã có hàng chục hồ sơ từ các nơi nộp về. Trong khi đó, nhu cầu chỉ vài vị trí. Khuôn mặt các cháu đều tươi trẻ, hồn nhiên và tràn đầy năng lượng tích cực. Hồ sơ nào cũng đầy đủ các văn bằng, chứng chỉ theo yêu cầu của công ty. Biết nhận ai, bỏ ai cho đặng? Hôm đưa tôi ra công trường, anh chia sẻ nỗi bâng khuâng này.
Anh nhớ, ngày mình vào lớp 10, cha đã bỏ làm đồng 2 ngày, đi chuyến đò ngang qua sông Vu Gia để về vùng A của huyện Đại Lộc, Quảng Nam để tìm nhà quen gửi cho anh ở trọ học.
Ngày ấy, muốn học cấp ba phải lên tận trường huyện. Mùa đông, nước lũ dâng cao, có khi cả tháng trời nên không thể sớm hôm vượt sông đi - về được. Thị trấn chợ huyện thời bao cấp không có một quán xá nào cả. Ở trọ thì phải chở gạo, muối, cá khô và cả củi đốt. Chính vì vậy mà chỉ nửa năm học, bốn lớp mười ở trường cấp ba huyện chỉ còn 3. Nhiều bạn vì gia đình khó khăn, đông anh em nên rơi rụng dần, cả khối còn đúng 1 lớp 12.
Hơn nửa lớp năm ấy thi đậu đại học. Thế nhưng anh vào ngành điện trường Đại học Bách khoa là nổi tiếng cả huyện. Riêng ở làng thì kẻ khen, người dè bỉu vì bầy con lớn tướng mà nhà anh cho đi học cả, chẳng đứa nào giúp cha cày được đám ruộng. Thêm 5 năm chứng kiến cảnh cha mẹ trần lưng ra làm đồng, nuôi heo, tích góp tiền gửi lên thành phố cho mình ăn học, anh càng thấm thía ơn nghĩa sinh thành.
Những năm đầu thập niên 90, tỉnh Kon Tum vẫn là nơi rừng thiêng nước độc, nhất là ở Đắk Lây - nơi anh nhận công tác để tham gia xây dựng đường dây 500kV. Biết vậy, nhưng phận con nhà nghèo, không có quan hệ, nên khi phỏng vấn xin việc lúc ra trường, anh xung phong ngay lên Tây Nguyên để “chắc” suất được nhận việc.
Hơn 6 tháng làm việc, dành dụm lương, giữa năm 1992 anh mua về cho nhà cái tivi. Nhưng lúc đó chưa có điện lưới quốc gia. Điện nhà máy đèn diesel chập chờn như thắp bình ắc quy. Nhờ kiến thức kỹ sư điện, anh tự quấn cái biến áp. Nhà mình điện sáng, nhưng bù lại hàng xóm tù mù, tụt áp hết.
Thời điểm ấy, nhà đài đang chiếu phim Tây du ký, cả làng tập trung nhà anh xem phim. Họ mới bắt đầu ngưỡng mộ cái sự học. Ai cũng đem chuyện cái tivi, cái sáng kiến làm tăng điện áp của anh ra mà răn dạy con cái phải cố học theo. Cuối năm đấy, anh mua thêm được cái tủ lạnh cho mẹ. Nhờ vậy mà cái tết đó nhà anh không phải ăn thịt muối, thịt bó lá treo giàn bếp như bao năm trước.
Các họ tộc ở làng, thậm chí cả chính quyền xã, huyện luôn đem chuyện cái tivi, tủ lạnh nhà anh ra làm câu chuyện khuyến học. Các em ở làng noi gương anh vào đại học ngày càng nhiều. Nhưng thời thế dần khác, giờ chúng thất nghiệp khắp nơi.
Hôm nay, chính Cty anh tuyển dụng, nhiều cháu cùng quê ứng thí, nhưng anh không thể ưu tiên nhận đồng hương dẫu mình là giám đốc. Lần đầu tiên anh thấy mình không quyết đoán. Cuối cùng trách nhiệm thuộc về hội đồng thi tuyển, phỏng vấn của Cty.
Nhưng, cái hội đồng xét tuyển mà anh đứng đầu ấy rồi cũng đã thiên vị. Anh nhận 3 kỹ sư đều không phải là những gương mặt ưu tú nhất, mà đều có chung nguồn gốc con nông dân, ở mấy xã vùng núi nghèo. Trong đó 1 nữ là con của công nhân bị thiệt mạng trên công trình xây dựng đường dây 500kV từ năm 1993 - khi cháu vừa ra đời.
Suốt nửa ngày lang thang trên công trường, anh có vẻ không vui vì thấy mình như thiếu công bằng. Nhưng tôi thì tin chuyện công bằng với mỗi người nhiều khi cũng là do số phận.