Thổ Châu là danh xưng quần đảo cực Tây - Nam của Tổ quốc thuộc TP. Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, gồm 8 hòn đảo lớn nhỏ: Thổ Châu, Nhạn, Khô, Cao Cát, Cao, Từ, Kèo Ngựa và Đá Bàn.
Trong đó Thổ Châu là hòn có diện tích lớn nhất và cũng là hòn có “biến động” danh xưng, thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội nhiều nhất. Thời gian gần đây tồn tại hai cách thể hiện danh xưng này trong nói và viết. Cụ thể là khi “Thổ Châu”, lúc “Thổ Chu”.
Điển hình cho nhóm thể hiện “Chu” là các tác phẩm: “Nước Việt Nam thống nhất”, “Kể về hải đảo của chúng ta” (1984), “Từ điển Địa danh văn hoá và thắng cảnh Việt Nam” (2004), “Từ điển Đơn vị hành chính Việt Nam” (2007)…
Trong khi đó, người dân Kiên Giang và các tác phẩm do người vùng Đồng bằng sông Cửu Long thực hiện, khi đề cập đến hòn đảo này, lại thể hiện là “Thổ Châu”. Thậm chí danh xưng “Thổ Châu” còn trở thành tên đơn vị hành chính của quần đảo này: Xã Thổ Châu. Mặt khác, nhiều công trình văn hoá, hành chính nơi đây, như: Cột mốc chủ quyền… cũng đều thể hiện là Thổ Châu.
Trước hết phải xác định cả “Châu” lẫn “Chu” đều là từ Hán Việt. Vì vậy, có thể về lịch đại, cả hai từ này chỉ có một cách phiên âm duy nhất, nhưng trải qua thời gian do ảnh hưởng cách phiên âm của thời đại mới nên dẫn đến sự khác biệt, nhất là giữa hai miền Nam và Bắc.
Có thể tìm thấy điều này trong các trường hợp “biến âm gần” đọc trại âm của trường hợp chữ Phúc/ Phước. Trong Hán tự, chữ Phước (14 nét, bộ kỳ) có nghĩa là may mắn, tốt lành, nhưng ở miền Bắc phiên âm là Phúc, trong khi đó ở miền Nam đa số phiên âm là Phước. Tương tự là Cảnh/Kiểng, Bảo/Bửu, Chính/Chánh, Nguyên/Ngươn, Nguyệt/Ngoạt, Mệnh/Mạng… Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nguyên nhân cơ bản là do ảnh hưởng tục kỵ húy của triều Nguyễn. Những từ nào có âm trùng với tên của người có chức vị to lớn trong hoàng tộc… thì phải “húy” bằng cách đọc trại âm đi. Trường hợp chữ “Châu” và “Chu” cũng nằm trong số này.
Theo nhà văn Anh Động, nguyên Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Kiên Giang, người dành nhiều thời gian nghiên cứu về Thổ Châu thì danh xưng Thổ Châu xuất hiện vào thời vua Gia Long (1762-1820) và nhiều khả năng do chính người sáng lập triều Nguyễn đặt tên để “tri ân” hòn đảo mà mình đã “đứng chân” những ngày bôn tẩu... Vì là hậu duệ của Chúa Nguyễn, trong đó có Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1825), nên chữ “Chu” được “húy” và đọc biến âm thành “Châu” rồi nhanh chóng được người ở vùng đất mới Nam Bộ sử dụng cả trong nói lẫn viết.
Mặt khác, về mặt đương đại, ở Nam Bộ, “Châu” và “Chu” là hai từ hoàn toàn khác nhau trong nói và viết bằng chữ Quốc ngữ (chính tả). Và vì đây là danh từ riêng của vùng đất (địa danh) nên không thể thay thế nó bằng “biến thể ngữ âm của nó” như đối với các danh từ chung một cách tùy tiện được.
Bởi như thế là thiếu tôn trọng lịch sử và dễ dẫn đến ngộ nhận với những hệ lụy khó lường sau này, nhất là đối với vùng tiền tiêu có nhiều ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - quốc phòng như Thổ Châu.