Người dân Okinawa biểu tình đòi quân đội Mỹ rút các căn cứ quân sự. |
Nếu căn cứ được di chuyển đến một vị trí khác trong Nhật Bản, thì dư luận vẫn không chịu buông tha và tinh thần chống Mỹ sẽ vẫn được kích động. Nếu căn cứ được chuyển hoàn toàn khỏi lãnh thổ Nhật Bản, người dân sẽ than phiền về việc để tiền Mỹ đội nón ra đi.
Tại sao Mỹ vẫn duy trì căn cứ quân sự tại Nhật Bản? Một trong những nguyên nhân là sự ỳ trệ. Mỹ xâm chiếm Okinawa năm 1945, ban đầu những căn cứ là chiến lợi phẩm. Ngay cả sau khi Okinawa được trả lại cho Nhật Bản năm 1972, một phần sáu diện tích đảo vẫn do Mỹ chiếm đóng và là nơi đồn trú của 75% lính Mỹ tại Nhật Bản.
Nguyên nhân thứ hai là hệ tư tưởng của Chiến tranh Lạnh với những lập luận về một hàng không mẫu hạm không thể bị đánh chìm (nếu như Okinawa được cho Mỹ sử dụng). Theo lập luận đó, thì đây là bức tường thành để đối trọng với một CHDCND Triều Tiên ngang ngạnh và một Trung Quốc đang vươn lên. Theo logic Chiến tranh Lạnh, thì “con sói luôn trực sẵn ngoài cửa, tai ương sẽ xảy ra với bất cứ ai lơ là chuyện canh gác và gây nguy hiểm cho an ninh khu vực”.
Tiếp theo phải kể đến phần việc đầy ấn tượng của quân đội Mỹ xuất phát từ nỗi ám ảnh về sự mất an ninh đó. Theo học giả Chalmers Johnson, tính đến năm 2005 có 737 căn cứ quân sự của Mỹ bên ngoài nước Mỹ (tăng đáng kể sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt) và 2,5 triệu quân nhân Mỹ đồn trú trên toàn thế giới. Điều gì đã xảy ra sau đối với những cam kết đã được đưa ra hai thập niên trước sau khi Bức tường Berlin sụp đổ? Một phần của những cam kết đó đã bị chìm xuồng xuống những chỗ như Okinawa.
Còn một nguyên nhân nữa cho thấy sự ngạo mạn cơ bản của Chính phủ Mỹ: “Giữ thần trong chai” xuất phát từ thực tế Nhật Bản không được phép tái vũ trang hoá. Thái độ của quân đội Mỹ dường như là “chúng tôi ở đây là đặc ân cho các anh”.
Nói về đặc ân. Lịch sử cho thấy, một khi đã thiết lập căn cứ ở nước ngoài, người Mỹ thường không rút. Họ thường hoặc thua trận (như trong chiến tranh Việt Nam), không còn sự lựa chọn nào khác (núi lửa Pinabuto hoạt động ở Philippines), hoặc bị nhà độc tài tống cổ (như ở Uzbekistan). Những lập luận về sự cân bằng quyền lực trong khu vực chỉ là sự lừa mị. Đừng bao giờ tính đến những vấn đề về chủ quyền quốc gia - đòi hỏi của đế chế Mỹ bắt buộc sức mạnh quân sự phải được đồn trú ở nước ngoài.
Nhưng trong trường hợp Nhật Bản, thì lại xuất hiện diễn biến mới: Vấn đề Futenma đang đánh thức Chính phủ Nhật.
Thủ tướng Hatoyama đã bỏ lỡ một số thời hạn đưa ra giải pháp, khiến nhiều người chỉ trích ông là không quyết đoán. Ông đã đến Okinawa nhiều lần để lắng nghe và giải thích cho người dân địa phương. Trong khi đó, phe đối lập là Đảng Dân chủ Tự do (LDP) lại lên án ông Hatoyama là người thất hứa (thực ra chính LDP trong 5 thập niên đã phớt lờ Okinawa, và Haytoyama là người chấp thuận bản hiệp ước do LDP ký kết năm 2006).
Futenma đã giành hết thời gian, khiến người ta xao lãng khỏi các chính sách mà nước Nhật quan tâm như tham nhũng, sự mất cân đối đang ngày một gia tăng trong kinh tế nội địa, những khoản nợ công xấu và tương lai của nước Nhật với dân số ngày một già trong thế giới.
Người Nhật thường được nghe rằng sự bất hợp tác của Nhật sẽ làm yếu đi quan hệ quý giá giữa Nhật và Mỹ, nhưng mối quan hệ này đã lỏng lẻo từ lâu. Tuyên bố về “mối quan hệ song phương bị đe doạ” là không có thật - Mỹ quan tâm nhiều hơn đến việc tăng cường tổ hợp công nghiệp quân sự hơn là an ninh khu vực ở Châu Á. Nói tóm lại, Nhật Bản càng ít muốn căn cứ Mỹ ở lại thì Mỹ lại càng không muốn ra đi.